Translate this page: English French German Spanish Vietnam
THƯƠNG TIẾC VIỆT DZŨNG!
Nhấn vào đây nghe bản nhạc Kinh Hòa Bình, sáng tác của Kim Long, với tiếng hát Việt Dzũng, trong dĩa CD do VietCatholic thực hiện.

Việt Dzũng là một trong những thành viên tiên khởi Đoàn Nghệ Sĩ Công Giáo do LM Văn Chi và LM Trần Công Nghị sáng lập tại Hoa Kỳ. Anh luôn luôn có mặt giúp vui trong những buổi văn nghệ lớn của Công Giáo Việt Nam. Năm 2003 khi người Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại tổ chức Đại Hội Niềm Tin ở Roma, Việt Dzũng là người huy động các ca nhạc sĩ Công Giáo khắp năm châu về Roma trình diễn Đại hội Văn Nghệ.

Tưởng niệm Việt Dzũng ở San Jose, CA


Nho+' Vie^.t Dzu~ng

Nghe anh o^m guitar ha't  mot sa'ng ta'c English
"Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển"
When I die, would you take my body down to the sea?

https://www.youtube.com/watch?v=n6ECQZi-Pv8

Đây là ghi âm hiếm quý vào thập niên 1980, đã được Ca sỹ Hoàng Oanh lưu giữ. Việt Dzũng đã lấy cảm ý của bài thơ "Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển", của nhà thơ Du Tử Lê. Anh đã phổ nhạc sang tiếng Anh, và hát cho bạn bè nghe trong một buổi họp mặt. Những lời trong bài hát thổn thức như những lời trăn trối của một người Việt Nam lưu vong, nhưng yêu quê hương tha thiết. Trung tâm Asia xin tiễn biệt nhạc sỹ Việt Dzũng với chính những lời ca này của anh.

Tho+ Du Tu+? Le^

English version by Việt Dzũng.

When I die
Would you take my body down to the sea?
'Cause for a long time, I have been living on without a country.
For a long time, I have been dying without a grave,
So when I die, would you bury me in the middle of the waves?
When I die, would you take my body down to the sea?
Don't hesitate, you'd never feel sorry for me,
Even cry, let the fish feed on my flesh,
So when I die, I will become part of the world that is so fresh.

When I die, would you take my body down to the sea?
Under the sun, let the ebb tide carry me.
When we go, would you please not close my eyes?
So I can see, for the last time, my home country?
I'll be gone, with the wind to the world other side,
To hear my mother's sigh, to hear my children's cry
From all the eyes, sadder than the night.

I'll be gone, with the scream to eternal dream,
Where there is no more blood to be shed,
And where there are no lives to be killed.
Ever peacefully, ever peacefully.
When I die, the sadness also dies,
Somebody forever parts, so forever exiles.
When I die, would you take my body down to the sea..?

https://www.youtube.com/watch?v=n6ECQZi-Pv8

 

Thôi em đi nghen, Việt Dzũng

Thương nhớ em, Nguyễn Ngọc Hùng Dũng

viet_dzung_3
Nhạc sĩ Việt Dzũng (1958-2013)

Ai mà chẳng có lần đi
em thì trẻ quá, chưa chi đi rồi !
mới vừa rổn rảng đó thôi
Bên Đời Hiu Quạnh (**) gọi hoài không nghe 
thiệt Tình Như Cây Cà Rem
Dòng Cuồng Lưu vội cuốn em bạt ngàn
người về Thung Lũng Chim Bay
còn đâu tiếng Hát Cho Người Dân Oan
Tình Ca Nguyễn Thị Sài Gòn
Đứa Con Của Mẹ  không còn, Mẹ ơi !
gió đưa cây cải về Trời
rau răm ở lại xót Lời Kinh Đêm
Dấu Chân Của Biển chưa quên
một thời thương hải tang điền nhiễu nhương
Một Chút Qùa Cho Quê Hương
Ngày Con Về  mới nửa đường lại xa
Những Tình Không Là Trăm Năm
đời chưa tới tuổi yên nằm, vội đi!
Dzũng bày chi cuộc chia ly
để anh không kịp nói gì cùng em
mới đây thôi buổi anh lên
gặp nhau rồi lại ngồi bên chụp hình
thằng em thiệt quá là tình
nụ cười hắn khiến cho mình nhớ thêm
Dzũng ơi em có thể quên
nhưng anh thì cứ nhớ em nhớ hoài
bây giờ em đã đi rồi
đi chi mà vội rứa Trời ! Trời ơi !…

anh giờ  nước mắt cạn rồi
thương em anh nhói đau lời trong Thơ…

Trần Huy Sao

San Diego, 20/12/2013

(**) những chữ nghiêng là tên
nhạc phẩm của em trai, Việt Dzũng

 


  
VIỆT DZŨNG trong lòng người ở lại

* Vài hạt sạn cần đãi lọc
Trần Phong Vũ
 
        Những giòng cuối về Việt Dzũng 

10 giờ 35 phút sáng Thứ Sáu 20-12-2013, giữa lúc mọi người đang rộn ràng chuẩn bị đón mừng ngày kỷ niệm Ðấng Cứu Thế giáng sinh để cứu độ muôn dân, Việt Dzũng thở hơi cuối cùng trên đường đến bệnh viện, hưởng dương 55 tuổi.

Một bầu trời thê lương, ảm đạm phủ xuống các cộng đồng người Việt tị nạn khắp thế giới trước tin anh ra đi. Trên các hệ thống truyền thông hiện đại, người ta đọc được những lời phân ưu thấm đẫm nước mắt và lòng yêu thương cảm mến của mọi tầng lớp đồng bào từ khắp nơi gửi tới người thân của anh, tới Radio Bolsa, tời đài SBTN, tới nhóm chủ trương băng nhạc Asia. Chính tại những nơi này, anh đã dốc hết công lao huyết hãn để phục vụ nhu cầu thông tin, giải trí của đồng hương tị nạn, và nhất là để cùng bà con thắp sáng chính nghĩa cho cuộc đấu tranh dành lại tự do, dân chủ, quyền sống, quyền làm người của 90 triệu đồng bào trên quê hương đau khổ.

Hàng trăm bài thơ, hàng trăm bài viết được post lên mạng bày tỏ lòng tiếc thương người nghệ sĩ tài hoa, tuy bị khuyết tật từ bẩm sinh, nhưng mang sẵn một trái tim vĩ đại, một ý chí sắt đá, một nhuệ khí ngút trời. Những bản nhạc đấu tranh quen thuộc trong số hơn 400 ca khúc do anh sáng tác, cùng một lúc vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm, ở các tiểu bang Hoa Kỳ, ở Âu Châu, Úc Châu, nơi có người Việt Nam tị nạn.  Một Chút Quà Cho Quê Hương – Lời Kinh Ðêm – Mời Em Về - Tình Ca Nguyễn Thị Sàigòn …
Và những giọt lệ chảy dài trên mắt, trên môi những đồng hương, trong số không thiếu những người chưa hề gặp gỡ hay quen biết anh, bao gồm cả những em nhỏ sinh ra nơi xứ người, không phát âm chuẩn tiếng Mẹ. 


Việt Dzũng là báu vật của cộng đồng tị nạn.
Anh là vốn quý của quê hương, dân tộc và là kẻ thù của kẻ ác.

Giọng nói truyền cảm, khoẻ mạnh của anh. Những bài hát chan chứa yêu thương, mang âm sắc rực lửa đấu tranh của anh. Tất cả đều như những mũi tên lao về phía trước, có tác dụng lay động lòng yêu nước của giới trẻ trong và ngoài nước, khiến tập đoàn thống trị Hànội phải bàng hoàng khiếp sợ. Và ngay từ những ngày đầu, khi tiếng nói Việt Dzũng vừa cất lên, anh đã bị kẻ ác lên án tử.

Lúc 7 giờ tối Chúa Nhật 22-12, hơn hai ngày sau khi Việt Dzũng từ giã cõi đời, nhóm chủ trương diễn đàn Paltalk yểm trợ Khối 8406 nối kết với nhiều diễn đàn bạn ở Âu châu, Úc châu và cả Việt Nam, đã dành cho tôi cơ hội được chia sẻ đôi điều nhân những giây phút mở đầu tưởng niệm anh, trước khi đi vào đề tài chính nói về trường hợp người trẻ Ðặng Chí Hùng đang bị CSVN săn đưổi ở Thái Lan.

Qua những trao đổi thân tình của cả ngàn tham dự viên buổi tối hôm ấy, tôi càng cảm nhận rõ hơn về mối cảm tình sâu đậm của quần chúng, -cách riêng giới trẻ-, ở trong cũng như ngoài nước, đối với người nhạc sĩ vừa ra đi ở tuổi 55. Quả thật tên anh đã gắn liền với những nỗ lực đấu tranh không ngừng nghỉ, chống lại tà quyền CSVN mà ngày nay đã hiện nguyên hình là một bày lang sói, độc tài, tham nhũng, đang mưu toan bán đất, dâng biển cho ngoại bang.

Tối thừ Sáu 27-12, một buổi tưởng niệm Việt Dzũng được tổ chức tại đài SBTN suốt từ 8 giờ tối đến quá nửa khuya. Trước một cử tọa đông đảo kẻ ngồi người đứng có mặt từ đầu đến cuối, từng người, từng đại diện các tổ chức, đoàn thể trong cộng đồng đã lần lượt được mời lên phát biểu những suy tư về sự ra đi bất ngờ của Việt Dzũng, về gương hy sinh lớn lao của anh, về những đóng góp không mệt mỏi của anh cho đại cuộc trong ngót 40 năm qua. Những hình ảnh ghi lại bước đường anh đã đi qua trong cuộc hành trình vận động cho nỗ lực đấu tranh chống lại những thế lực gian dối, bạo tàn trên quê hương Việt Nam, luân phiên xuất hiện trên màn ảnh phía sau khán đài.

Và dịp này, thêm một lần nữa mọi người lại được nghe những ca khúc quen thuộc của anh… để nhận ra một Việt Dzũng đậm tình quê hương dân tộc, đau niềm đau của những thuyền nhân mất vợ, mất chồng, mất cha, mất con nơi biển cả trên đường tìm tự do, của những bà mẹ Dân Oan giãi nắng dầm mưa tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hànội, tại văn phòng 2 Quốc Hội cạnh nhà thờ Ðức Bà, Sàigòn, của những người trẻ bị CACS ruồng bố, đánh đập, ném lên xe cây trong những cuộc xuống đường chống Tàu Cộng xâm lăng biển đảo; một Việt Dzũng đanh thép, quyết liệt, hào hùng khi cất tiếng kêu gọi đồng bào đứng lên cứu nước...

Ngoài đám đông cử tọa hiện diện trong khuôn viên đài SBTN, nội dung buổi tưởng niệm đã được cả trăm ngàn khán thính giả trên 50 tiểu bang Hoa Kỳ, Canada và Úc châu theo dõi trên màn ảnh TV. Tất cả những gì biểu tượng cho Việt Dzũng: con người anh, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần, khí phách anh, dù đôi chân khuyết tật vẫn không cản bước đường anh đi tới… đã được diễn lại cho mọi người nhìn thấy, cảm thấy và đụng chạm tới qua lời anh nói, tiếng anh hát, những việc anh làm 38 năm qua trong buổi tưởng niệm với nhiều nước mắt nhưng cũng không ít niềm vui và hy vọng tối Thứ sáu, 27-12.

Trong hai ngày Thứ Bảy, Chúa Nhật (28-29/12/2013), nhìn đoàn người thuộc đủ mọi thành phần tuồi tác, phái tính, địa vị từ khắp bốn phương lũ lượt đổ về nhà quàn Peek Family Funeral Home ở nam California để nhìn Việt Dzũng lần cuối, thắp một nén hương cầu nguyện cho anh, người ta mới cảm nhận được trọn vẹn lòng tiếc thương, ái mộ của các giới đồng bào đối với người ra đi. Trong bầu không khí trầm mặc nơi nhà quàn, giữa những lời kinh cầu thiết tha trầm bổng, nghe được những tiếc nấc uất nghẹn, thấy được những giòng lệ xót thương chảy dài trên khuôn mặt những cụ già, những em bé.

Chưa hết. Sáng Thứ Hai, ngay từ lúc hừng đông cho tới hơn 10 giờ, bà con tiếp tục đổ về nhà quàn. Và những lời cầu nguyện, những lời chia buồn lại tiếp nối trước khi di quan tới Giáo đường Thánh Linh để cử hành Thánh Lễ cầu cho Linh hồn GioaKim.

Ðây là một đám tang lớn nhất từ trước tới nay. Dư luận nói với nhau như thế. Lòng Giáo đường Thánh Linh vốn được coi là rộng thênh thang nhưng buổi trưa hôm ấy vẫn không đủ chỗ cho người tham dự, khiến đông đảo bà con phải ngồi đứng chen chúc bên ngoài, tràn ra bãi đậu xe. Ðiều cảm động nhất và cũng là một đặc điểm chưa từng có trong những tang lễ xưa nay: giữa rừng giáo dân và lương dân là hàng chục bóng áo vàng của các chư Tăng Phật Giáo nghiêm trang hướng lên bàn thờ. Bên cạnh đó là những chiếc áo trắng của các chức sắc Cao Ðài Giáo, áo nâu của những vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Ðiều này cho thấy Việt Dzũng, ngoài tư cách Kitô hữu, anh là một công dân Việt Nam mà thuở sinh thời đã hiến trọn cuộc đời cho lý tưởng quốc gia, dấn thân phục vụ người nghèo, người bị áp chế. Anh đã sống trọn giáo huấn Ðức Giáo Hoàng Biển Ðức từng tuyên xưng: “Người Công Giáo Tốt phải là Người Công Dân Tốt”. Và đấy là lý do anh được mọi người, mọi tôn giáo yêu thương, quý trọng.

Trên Cung Thánh, Ðức Giám Mục Mai Thanh Lương, phụ tá Giáo phận Orange, nhắc lại bài giảng trên núi của Chúa Giêsu về Tám Mối Phúc (còn được gọi là Hiến Chương Nước Trời) theo trình thuật của Thánh Mát-Thêu. Từ đấy, ngài dẫn tới kết luận: trong suốt cuộc hành trình dương thế, với tình thương vô biên dành cho tha nhân, với thái độ khoan dung, lễ nhượng, luôn sống chan hòa với mọi người, GioaKim Việt Dzũng đã quên thân mình, quên khuyết tật bẩm sinh, dùng hết tài năng, sức lực giới hạn Chúa cho để phục vụ những thành phần thấp cổ bé miệng, những đồng bào là nạn nhân của cường quyền bạo lực trên quê hương.

Do đó anh xứng đáng được hưởng phúc Thiên đàng. Vì chính Chúa Giêsu đã phán hứa: “Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương… Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những người công chính bị bách hại, vì Nước Trời là của họ.” (Mt. 5: 7, 9, 10). Thánh Lễ kết thúc. Ca đoàn cất lên lời ca tiễn biệt.
“Xin giã biệt mọi người,
Tôi ra đi lần cuối,
Không bao giờ trở lại,
Hẹn nhau trên Nước Trời…

Âm hưởng bài hát trầm buồn nhưng chan chứa tin yêu và hy vọng dõi bước đoàn người theo linh cữu Việt Dzũng tới nghĩa trang Chúa Chiên Lành.
 
Từ HY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
tới GioaKim Việt Dzũng 

Tự dưng tôi liên tưởng tới bài thơ “Con có một Tổ Quốc: Việt Nam” của cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được phổ nhạc qua tiếng hát Khánh Ly.
“Con có một Tổ Quốc: Việt Nam... Quê hương yêu quý ngàn đời…Con hãnh diện. Con vui sướng… Con yêu non sông gấm vóc… Con yêu lịch sử vẻ vang…” 

Nghe bản nhạc Khánh Ly hát, nhạc: Lm Lê Bá Công

ConCoMotToQuoc DHYNVThuan LMDBCong KLy

 

Xem Slideshow  "Con Có Một Tổ Quốc"

http://video.freevietnews.com/video02.php5##


Chiêm ngắm cuộc sống của một Giáo phẩm cao cấp và một Giáo dân bình thường, người ta nhận ra mỗi Kitô hữu có một cách thể nghiệm đức tin của mình. Tuy khác nhau ở bề mặt, nhưng hoàn toàn đồng dạng từ bản chất. 


Cố HY Thuận luôn phó thác đời ngài cho Thiên Chúa, chấp nhận 13 năm tù trong nhà lao cộng sản, chia sẻ nỗi khốn khó với những anh em đồng cảnh ngộ trong những nhà tù ngài đã trải qua. Với tấm lòng yêu thương chân thật, cố HY đã cảm hóa được không ít những kẻ bách hại ngài. Và Giáo Hội đang trên đường tuyên Thánh cho ngài. 


Cố HY từng nói thẳng với những công an CS hành hạ ngài:
“Cho dù các anh giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa Ki Tô đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ thù. Nếu tôi không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là Kitô hữu…”
Việt Dzũng không ở tù ngày nào. Nhưng, một cách nào đó anh là người tù suốt 55 năm dài trên đôi chân teo tóp vô dụng. Tuy nhiên, anh không cam phận làm người khuyết tật chung thân.

Và, như một phép màu, với đầu cao mắt sáng, một ngày anh đứng dậy. Anh đứng dậy không chỉ bằng đôi nạng gỗ. Anh đứng dậy và đứng vững chắc bằng niềm tin nơi Ðấng đã bù đắp cho anh một tài năng thiên phú, một khối óc thông minh, một trái tim bỏng cháy yêu thương, và một nghị lực phi thường để vượt qua tất cả. Trước tiên là mặc cảm của một người khuyết tật bẩm sinh. Kế đến là sống như mọi người, hành động như mọi người, và trong thực tế anh đã vượt trên và xa mọi người. Ðiều trân quý nhất là anh vẫn khiêm tốn, sống yêu thương, hòa đồng với mọi người.

Trong cuộc đời, từ lúc sinh ra cho đến giây phút thở hơi cuối cùng, anh được bà con yêu mến, quý trọng. Anh là biểu tượng của một nhân cách lớn, một nhân cách hoàn hảo. Trong đời sống đức tin, hẳn anh chưa quên những giáo huấn anh nhận được thuở còn thơ từ các Sư Huynh Dòng LaSan Taberd.  
 
 (Trong khoảnh khắc, từ sâu thẳm của ký ức mỏi mòn, tôi chợt thấy hiện ra hình ảnh chú bé 7, 8 tuổi chống nạng bên cổng trường LaSan Taberd đường Nguyễn Du Sàigòn. Ðấy là những năm giữa thập niên 60, thời gian tôi dạy quốc văn một số lớp 11 chương trình Việt tại trường này, thời của các Sư Huynh Désiré, Ernest, Edmond. Vào những ngày có lớp trong tuần, mỗi chiều tan học ra về, tôi gặp chú đang vui vẻ, hồn nhiên chơi đùa với các bạn đồng trang lứa như mọi đứa trẻ bình thường, trong khi chờ phụ huynh tới đón. Khuôn mặt khôi ngô, cặp mắt tự tin, sáng rỡ, không vương chút mặc cảm tự ti.

Không ngờ, sau ngày cộng sản thôn tính miền Nam, một buổi tối đầu xuân năm 1977, tôi gặp Việt Dzũng, một Việt Dzũng 19 tuổi đẹp như thiên thần, vững vàng trên đôi nạng gỗ trong một buổi trình diễn văn nghệ ở thành phố Kansas bang Missouri miền Trung Tây Mỹ quốc. Dời cư về miền nắng ấm, tôi gặp lại anh, một Việt Dzũng dày dạn hơn, phong sương hơn, và dĩ nhiên mạnh mẽ, cương nghị, được nhiểu người yêu mến hơn.)
 
        Những tiếng vọng trên quê hương 

Việt Dzũng không chỉ dành được cảm tình của đồng bào tị nạn ở hải ngoại. Khi anh còn tại thế, qua các trang mạng và nhất là qua băng nhạc Asia, rất nhiều bà con ở quốc nội đã biết tới anh và những thành tích tranh đấu cho nhân quyền của anh. Tin anh qua đời cũng làm cho nhiều bà con trong nước xúc động và tỏ lòng thương tiếc, không chỉ âm thầm, mà còn biểu lộ công khai trước tai mắt của đảng và nhà nước. Trong cuộc biểu tình của hàng trăm Dân Oan ở Văn Phòng 2 Quốc Hội CS gần nhà thờ Ðức Bà Sàigòn sáng ngày đầu năm 2014, bên cạnh những biểu ngữ chống đối chính sách ăn cướp của chế độ CS Hànội, người ta đọc được trong một tấm hình chụp một biểu ngữ với hàng chữ lớn:
 
 “Vô cùng thương tiếc cố ca nhạc sĩ Việt Dzũng”
Người Buôn Gió, bút danh của Blogger Bùi Thanh Hiếu, một Phật tử trẻ từng sát cánh bên cạnh những cuộc đấu tranh bất bạo động của tập thể tín hữu Công giáo ở nhà thờ Thái Hà lâu nay, nhân ngày đầu năm 2014 cũng gửi lên NET một bài viết cảm động về tác giả Lời Kinh Ðêm.

“Nhưng chim đã gãy cánh.
Tôi định không viết gì về anh, mặc dù những ca từ Chút Quà Cho Quê Hương, Lời Kinh Ðêm hay Mời Em Về của anh đọng sâu sắc trong tôi lúc tôi chỉ mười mấy tuổi. Lúc tôi không ý thức nhiều về chính trị, nhưng thân phận con người trong lời ca của những nhạc phẩm mà anh sáng tác thật khủng khiếp. Có lẽ tôi chưa thấy một nhạc sĩ nào vẽ những nét vẽ về thân phận con người mà sự ám ảnh ghê gớm như Lời Kinh Ðêm. Nhất là câu hỏi da diết với trời xanh, biển cả đang làm giống tố quăng quật những con thuyền mong manh giữa trùng khơi.
‘Biển ngây ngô hay biển man rợ?
Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ?

(…)
Thế rồi đột ngột nhạc phẩm Mời Em Về tuy có dấu ấn chung về nỗi buồn thân phận lưu vong như hai bài trước, nhưng nhạc phầm này ca từ lãng mạn một cách êm đềm đến dịu ngọt. Tôi cám ơn anh, mặc dù anh chưa ra Hà Nội lần nào nhưng nét vẽ của anh về Hà Nội, về một bà mẹ Hà Nội tóc bạc ngồi đâu đó đang tụng lời kinh Phật, tiếng Nam Mô buồn làm tôi nhớ người mẹ già của tôi vô vàn. Người mẹ già của tôi đã bao lần ngồi đâu đó ở ngôi chùa nào của Hà Nội tụng kinh khấn Phật mong cho tôi thoát được cảnh ngục tù. 

Bài hát dịu dàng lắm, này ‘Cổ Ngư chiều đổ lá, trong mưa buồn lưa thưa, này phố phường xưa những chiều mưa phủ.’
Bài hát mà lời như định mệnh. -Mà cả lời của ba bài hát, có bài nào lời không như định mệnh đâu.? Một định mệnh buồn của thân phận tha hương.

‘Nhưng chim đã gãy cánh
Nhưng mây đã ngừng trôi
Ðể cho tôi còn lại nơi này…
’ 

Mong anh nằm yên bình nơi ấy, nếu có dịp mà tôi sang bên đó. Chắc chắn sẽ đến nấm mồ xanh của anh để thắp nén hương cho một trong những người nhạc sĩ Việt Nam, đã viết những nhạc phẩm về thân phận con người sâu sắc nhất. Mong lời ca của anh sẽ khiến những con chim xa xứ không bao giờ mỏi cánh ước mơ tìm về với quê cha, đất mẹ. Ðể chao cánh lượn trên bầu trời Hà Nội, Sài Gòn trong một chiều say nắng.

Chia buồn với trung tâm Asia đã mất đi một người MC ưu tú, người MC quan tâm sâu sát đến từng diễn biến của những người đấu tranh trong nước, nhắc tên những người đấu tranh trên sân khấu giữa hàng nghìn khán giả. Ðể cho những người yêu nước bên ngoài và những người yêu nước bên trong thấy gần gũi với nhau hơn, gắn bó và hiểu biết nhau hơn. Khoảng trống của anh để lại thật lớn trên sân khấu Asia. Hy vọng những MC như Nam Lộc, Thùy Dương cập nhật tình hình trong nước nhiều hơn và cặn kẽ hơn để lấp khoảng trống mà Việt Dzũng bỏ lại, thiết nghĩ đó cũng là cách tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa và đầy lòng trắc ẩn, bao dung đó.”

Trong những giòng mở đầu bài viết, NBG thố lộ:“Tôi định không viết gì về anh”. Tiếp theo một đoạn và sau khi trích hai câu ‘Biển ngây ngô hay biển man rợ? Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ?’ trong bản nhạc Lời Kinh Ðêm, tác giả thẳng thắn nêu lý do: 


“Sở dĩ tôi định không viết bởi tôi hèn. Tuy rằng trong thâm tâm tôi nếu có dịp sang Mỹ, kiểu gì tôi cũng tìm gặp để chào anh một cái bắt tay. Tôi hèn chẳng phải tôi sợ những người cộng sản đối nghịch với anh, họ làm gì tôi. Tôi hèn vì tôi sợ 'một số người’trong số những người đấu tranh dân chủ. Họ sẽ chửi tôi tư cách gì viết về anh hả thằng oắt con Bắc Kỳ. Mày định lăng xê cho bản thân mày à.?” 

Tô đậm mấy giòng trên đây của tác giả NBG, người viết bài này muốn nói với anh rằng: con số những người anh nghĩ sẽ ‘chửi’ anh như trường hợp Nguyễn Lân Thắng từng bị ‘chửi’ mà anh đề cập trong bài, chắc chắn không nhiều, và cũng chắc chắn trong cái thiểu số ấy có những thành phần nhẹ dạ đáng thương hơn đáng trách. Họ vô tình bị thúc đẩy bởi một mưu toan xuất phát từ nỗi sợ hãi vỡ đảng từ những kẻ cầm quyền trong nước, với sự hà hơi tiếp sức của một nhúm tay sai vô sỉ ở hải ngoại.
 
Sánh lược ‘sandwich’ để tung hỏa mù
Ðiều cần nói và phải nói là ngay trong sự ra đi bất chợt của Việt Dzũng cũng tàng ẩn những điều nghịch lý mà trong tiêu đề nhỏ ở đầu bài viết tôi mệnh danh là những hạt sạn cần đãi lọc.
Những hạt sạn ấy là gì?

Sau ngày Việt Dzũng nằm xuống, mỗi buổi sáng tôi phải mỏi tay xóa bỏ không biết bao nhiêu thư ‘rác’ với nội dung không ngoài mục tiêu đánh phá, mạ lỵ những cá nhân và tổ chức thuở sinh thời Việt Dzũng vốn sát cánh như bạn đồng tâm đồng chí. Họ gửi vào hàng loạt cả trăm mail ‘rác’ cùng một lúc, không phải một mà dưới nhiều danh tính khác nhau, nhưng hoàn toàn xa lạ đối với người nhận.

Có những mail tố cộng kịch liệt, nhưng toàn những điều vô thưởng vô phạt mọi người đã biết từ lâu. Cũng có những mail chuyển tải những bài thơ, những bài viết xưng tụng Việt Dzũng hay bày tỏ lòng mến tiếc anh. Nhưng xen kẽ trong đó là những liều độc dược, những lời lăng mạ thậm tệ Trúc Hồ, Nam Lộc và trung tâm Asia ! Họ khôn khéo áp dụng sách lược “sandwich”, trưng ra những luận điệu kể tội CS và những lời nói tốt Việt Dzũng để tạo niềm tin tưởng cho người đọc họ, trước khi giở ngón đòn ‘chụp mũ’, bôi bẩn nhằm triệt hạ hoặc ít nữa là gây hoài nghi đối với những cá nhân, những tổ chức đang là đối tượng cần truy diệt của Hànội. Nhưng người tinh ý, nhất là có ít nhiều kinh nghiệm về CS, dễ dàng nhận ra ngay.

Cụ thể là ngoài ý đồ lập lại những luận điệu hài tội Trúc Hồ, đài SBTN, trung tâm Asia như vẫn làm lâu nay, trước và sau đám tang Việt Dzũng, những kẻ lá mặt lá trái này còn nhân việc thân mẫu và hiền thê ca nhạc sĩ Việt Dzũng vì lý do chẳng đặng đừng phải từ chối thiện chí của các tổ chức cựu chiến sĩ trong QLVNCH muốn cử hành nghi thức phủ cờ cho người quá cố, để tiếp tục lải nhải lên tiếng chỉ trích. Họ lôi ra từ bà Hạnh Nhân tới nhạc sĩ Nam Lộc để báng bổ bằng những lời lẽ nặng nề, hạ cấp.

Nghe lại DVD ghi hình ảnh và âm thanh buổi tưởng niệm tối Thứ Bảy 27-12-2013 tại đài SBTN, tôi còn nhớ gần như nguyên văn lời công bố của nhạc sĩ Nam Lộc với tư cách MC về quyết định từ chối vinh dự phủ cờ cho người quá cố của bà quả phụ Nguyễn Ngọc Bảy và Bébé Hoàng Anh, sau khi nghiên cứu kỹ những giới hạn hợp lý trong điều lệ phủ cờ theo những quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Có điều những kẻ phá hoại không chịu tin như vậy và vẫn tiếp tục bôi bác. 

Hiển nhiên vấn đề phủ cờ chỉ là cái cớ để những kẻ xấu lợi dụng hầu làm loãng đi cái hào khí của tập thể người Việt trước sự ra đi của Việt Dzũng, đồng thời đánh phá những Nam Lộc, Trúc Hồ, đài SBTN và trung tâm Asia.

Viết ra những sự thật này, tôi biết mai đây có thể cá nhân tôi sẽ trở thành đối tượng bị bội bẩn. Nhưng có phải vì thế mà im lặng? Thuở sinh thời cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện bị xuyên tạc, bị bang bổ, cùng với một số bằng hữu của anh, tôi đã công khai lên tiếng. Và bây giờ cũng không thể khác.
 
Lời chót trước khi kết thúc

- Qua nỗi sợ bị người hải ngoại ‘chửi’ của Người Buôn Gió,
- qua biểu ngữ công khai bày tỏ lòng thương tiếc Việt Dzũng của các Bà Mẹ Dân Oan trong cuộc xuống đường ở Sàigòn giữa ngày đầu năm 2014,
- qua sách lược núp bóng chống cộng như một chiêu bài, một sách lược giai đoạn để báng bổ những khuôn mặt được coi là khắc tinh của CSVN gần đây,
- và qua tâm trạng âu lo vỡ đảng của Hànội… vài câu hỏi được đặt ra.
* Ðảng và nhà nước CSVN sợ hãi điều gì và đang toan tính gì trong lúc này?

Trường hợp Lê Hiếu Ðằng, TS kinh tế Phạm Chí Dũng, BS Nguyễn Ðắc Diên liên tiếp công khai tuyên bố bỏ đảng vào thời điểm cuối năm 2013 có giá trị như quả bom tấn đánh vào đầu não chế độ Hànội. Họ lo sợ một cao trào thoái đảng hàng loạt sẽ xảy ra trong tương lai không xa. Những đòn phủ đầu nhằm đánh vào não trạng dao động của hàng triệu đảng viên CS các cấp đã và đang diễn ra ở Sàigòn qua việc triệu tập đảng viên để ‘khai trừ’ các ông Ðằng, Dũng và Diên, dù biết đây là chuyện ‘ruồi bu’ khi chính các đương sự đã minh danh viết thư từ bỏ đảng!

Ðối với tập thể người Việt hải ngoại, Hànội rất sợ những cá nhân, những tổ chức đấu tranh chuyển lửa về kích thích đồng bào đứng dậy, đồng thời gây mầm bất mãn, bạo loạn trong nội bộ đảng và nhà nước. Tình cảm cuồng nhiệt, náo nức của tập thể tị nạn ở Hoa Kỳ, ở Âu Châu, Úc Châu dành cho Việt Dzũng khi anh nằm xuống (như đã dành cho tác giả Hoa Ðịa Ngục trướcđây) càng làm cho nỗi âu lo của đảng và nhà nước CSVN nhân lên thập bội.

Ðiều này lý giải cho hiện tượng tăng tốc chiến dịch bôi bác, tung hỏa mù nhắm vào bạn bè anh của những kẻ thân xác tuy khoẻ mạnh nhưng trí óc và tâm hồn bại liệt, hòng làm suy yếu những nỗ lực đấu tranh chung, trong những ngày qua.

* Như thế chúng ta nghĩ sao và phải làm gì trong lúc này?
Trước hết, sau sự ra đi của Việt Dzũng, mỗi cá nhân, mỗi đoàn thể trong cộng đồng phải quyết chí biến đau thương thành hành động. (Ðấy là điều từ bên kia thế giới chắc chắn Việt Dzũng đang trông đợi.) Muốn hành động có hiệu quả tối đa chúng ta cần phải mạnh. Muốn mạnh phải dứt khoát gạt bỏ mọi tư kiến, thống nhất quan điểm, dồn nỗ lực vào việc vận động quốc tế, hỗ trợ đồng bào và các nhà dân chủ trong nước tiến hành cuộc đấu tranh tiêu trừ sự ác.

Ðây là một cuộc đấu tranh bất bạo động, một cuộc đấu tranh bằng tinh thần, bằng ý chí và bằng cân não, trong đó 90 triệu đồng bào trong nước –bao gồm cả những cán bộ, bộ đội, những đảng viên CS phản tỉnh-, sắm vai trò quyết định.

Cần nhận thức rằng: có rất nhiểu chỉ dấu cho thấy tình hình đất nước ngày nay đã hoàn toàn đảo ngược. Trong khi người dân đang dần vượt qua sự sợ hãi  thì phía đảng và nhà nước cộng sản càng ngày càng co rút lại trong nỗi kinh mang trước một tương lai mờ mịt. Chưa bao giờ đảng cộng sản suy yếu, rệu rã như những năm gần đây. Ðấy là chưa nói tới những khó khăn bế tắc vô phương cứu vãn mà chế độ đang phải đối diện, bao trùm hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục.

Sự tồn tại của chế độ chuyên chính Hànội chủ yếu dựa vào kỷ luật thép trong đảng cộng sản, một thứ kỷ luật được tạo nên bằng cái ‘chủ nghĩa bánh vẽ’ và bằng những biện pháp sắt máu với chủ trương ‘thà giết oan mười mạng còn hơn để một mạng lọt lưới!’. Ngày nay thứ kỷ luật ấy đã hết linh khi người dân đã vượt qua nỗi sợ thâm căn cố đế, khi đa số đảng viên đã giác ngộ, nhận ra bộ mặt thật tàn bạo của thiểu số lãnh đạo, ăn trên ngồi trước được xu phụ bởi một đám đảng viên vô sỉ, chỉ còn bám vào nhau vì những lợi ích cá nhân, tạo nên những trò đấu đá, tranh ăn và càng ngày càng cho mọi người thấy rõ bản chất tham ô, bất tài, bán nước của chúng.

Trong điều kiện ấy, ngoài nỗ lực củng cố thêm thế mạnh của mình, tập thể người Việt hải ngoại cần quan tâm tới việc làm suy yếu hàng ngũ đối phương.
Bằng cách nào? 

Trước hết, bằng tình liên đới, kết đoàn và tinh thần khoan dung, nhân ái. Chính sự liên đới, cảm thông sẽ gắn kết mọi người thành một khối và tinh thần khoan dung, nhân ái sẽ khích lệ những cán bộ, bộ đội bao gồm cả đảng viên đảng CS, nhất là những thành phần đã bắt đầu nhận ra sự lầm lạc của mình, dám mạnh dạn đứng về phía nhân dân chống lại thiểu số cầm quyền đang tác oai tác quái trên quê hương. 

Là những kẻ đang sa lầy vì chính sách bất nhân tàn bạo, hơn ai hết Hànội ngày càng nhận ra sự thất nhân tâm của chúng trước một đối phương luôn lấy sự khoan hòa, bao dung, nhân bản làm phương châm tranh đấu. Từ đấy chúng ta có nhiều lý do để tin rằng những luận điệu chụp mũ, khích bác, báng bổ, gây hỏa mù trong nội bộ cộng đồng hải ngoại không ngoài ý đồ của Hànội, trước hết nhằm làm suy yếu tiềm năng đấu tranh của chúng ta, đồng thời có cớ để hù dọa răn đe, hầu giảm thiểu hoặc làm chậm lại tình trạng thoái đảng hiện nay. 

Từ những suy tư trên đây, thái độ thành khẩn gói ghém trong những lời nói thật lòng của Người Buôn Gió cùng với nội dung biểu ngữ tỏ bày lòng yêu thương mến tiếc Việt Dzũng của đám đông Dân Oan trong cuộc xuống đường ở Sàigòn ngày đầu năm 2014 vừa qua, phải là bài học để chúng ta cùng suy gẫm.
 
Nam California, ngày 05 tháng 01 năm 2014
Trần Phong Vũ
  

         













TIỂU SỬ VIỆT DZŨNG

Suốt hơn ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhất là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng.

   Việt Dzũng tên thật là Nguyễn Ngọc Hùng Dzũng, sinh ngày 8 tháng 9 năm 1958 tại Sàigon, Việt Nam. Anh là con trai thứ 3 trong gia đình. Ba của anh là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Dân Biểu của nền đệ nhị cộng hoà Việt Nam và cũng là Thiếu Tá Y sĩ trưởng Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Mẹ của anh là bà Nguyễn Thị Nhung, giáo sư trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn.

Từ nhỏ anh đã là một học sinh xuất sắc của trường Lasalle Tabert ở Sài Gòn, cũng như anh trai và đứa em trai kế của anh. Người chị lớn của anh thì đang du học bên Nhật Bản về ngành giáo dục. Việt Dũng đã yêu thích âm nhạc từ khi còn rất trẻ và được các sư huynh ở trường Lasalle Tabert chỉ dạy rất tận tình. Trong lúc gia đình mong cho anh sau này trở thành Bác sĩ để nối nghiệp cha, thì Việt Dzũng lại đam mê ca hát, văn nghệ.

Anh thường cùng các bạn học trình diễn ca nhạc ở những buổi văn nghệ liên trường. Việt Dzũng đã từng chiếm giải nhất ở cuộc thi văn nghệ của trường Tabert và đại diện trường đi tham dự các buổi hát ủy lạo chiến sĩ VNCH, cũng như tham dự vào những đại hội nhạc trẻ khắp nơi bên cạnh những tên tuổi nổi danh thời bấy giờ như Trường Kỳ, Nam Lộc, Jo Marcel, Tùng Giang, Đức Huy, Elvis Phương.v.v.. Đó là khoảng thời gian từ năm 1971 cho tới tháng tư năm 1975.

Biến cố 30 tháng tư năm 1975 cùng với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã đưa Việt Dzũng rời xa quê hương mà cho đến nay chưa một lần nào anh đặt chân trở lại. Cùng với 36 người chen chúc nhau trên một chiếc tàu nhỏ bé, mong manh, Việt Dzũng và bà ngoại của anh đã vĩnh viễn rời xa gia đình và đất nước Việt nam. 







Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như phải chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển cả, tàu của họ mới cập được bến Singapore. Nhưng liền sau đó, tất cả lại bị chuyển qua một chiếc tàu khác và thẳng đường tới trại tị nạn Subic ở Phi Luật Tân. Tại trại tạm cư Subic, chàng thanh niên trẻ Việt Dzũng tạm quên đi những kỷ niệm thật đẹp ở quê nhà mà bắt tay ngay vào đời sống mới. Với số vốn Anh ngữ học được ở trung học và tính tình hoạt bát, Việt Dzũng liền tham gia hoạt động trong ban tổ chức và điều hành trại, đón tiếp và giúp đở nhiều chuyến tàu tị nạn lần lượt cặp bến Subic cho đến khi trại này đóng cửa.

Rời trại tị nạn này, Việt Dzũng cùng bà ngoại được đưa sang đảo Guam, rồi chuyển sang trại Ft. Chaffee ở tiểu bang Arkansas. Trong thời gian này Việt Dzũng hoạt động không ngừng nghỉ, từ việc đón tiếp đồng bào tị nạn mới tới, sinh hoạt trong hội Hồng Thập Tự, hội USCC, cộng tác với tờ báo của trại, chương trình phát thanh của trại, làm thông dịch viên giúp đỡ rất nhiều người chung quanh.

Chính những kinh nghiệm sống trên đường vượt biển tìm tự do này đã khiến cho anh sáng tác rất thành công các ca khúc để đời sau này, mà tiêu biểu nhất vẫn là “Lời Kinh Đêm” với những câu ca:

“Thuyền trôi xa … về đâu ai biết ?
Thuyền có về …ghé bến tự do ?
Trời cao xanh … hay trời oan nghiệt
Trời có buồn … hay trời vẫn làm ngơ ?…
Người buông xuôi về nơi đáy nước
Người có mộng một nấm mồ xanh ?
Biển ngây ngô hay biển man rợ
Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ …?”

Ở lại trại gần đến ngày cuối cùng trước khi trại đóng cửa, anh được Đức cha Bernard Law, Giám Mục địa phận Springfield, Missouri, bảo trợ và gởi đến tạm trú trong một gia đình người Mỹ. Năm 1976, Việt Dzũng tiếp tục học lớp 11 ở trường trung học St. Agnes, Missouri và tự trau dồi thêm về âm nhạc theo như sở thích và đam mê từ nhỏ của anh. Tại đây, anh bắt đầu sinh hoạt ca hát với các anh chị em thuộc cộng đồng Việt Nam. Anh cũng từng xuất hiện trên đài truyền hình KOZK21 ở Springfield. Một năm sau (1977), Việt Dzũng được đoàn tụ với gia đình ở Wood River, tiểu bang Nebraska. Năm đó anh tốt nghiệp trung học tại trường Wood River.
 
Năm 1978, Việt Dzũng chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc khi cùng một người bạn học chung trường tên là Vernon Larsen lập ban song ca để hát theo lối du ca (troubrador) của Mỹ, tên “Firebirds” (Chim Lửa). Đôi song ca này chuyên hát nhạc đồng quê của Hoa Kỳ (American country music). Việt Dzũng sử dụng tây ban cầm và cùng người bạn Mỹ đi trình diễn khắp nơi ở vùng Trung Mỹ, kể cả các club nhạc của dân địa phương. Nhiều người Mỹ đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên Á châu hát nhạc đồng quê rất thành thạo, trôi chảy nên đã dành cho anh thật nhiều thiện cảm.
 
Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy. Thật ngạc nhiên khi anh là người Việt Nam đầu tiên, mà cũng là người Á châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác country music với bài hát hoàn toàn bằng Anh ngữ. Ngay sau đó, một hãng dĩa về country music đã mời anh cộng tác để thực hiện một Album nhạc đồng quê, nhưng anh đã từ chối vì muốn tiếp tục học ở Đại học theo ý muốn của song thân.



 Cũng trong năm này, Việt Dzũng bắt đầu sáng tác nhạc Việt với bài hát đầu tiên là “ Sau Ba Năm Tỵ Nạn Tại Hoa Kỳ”, viết về thân phận người dân xa xứ với những đau đớn chia lìa. Bài hát thứ hai là “Một Chút Quà Cho Quê Hương” đã trở thành một ca khúc lẫy lừng nhất của Việt Dzũng,được mọi người yêu thích cho đến tận hôm nay. Đó là thời gian người Việt tỵ nạn bắt đầu gửi quà về cho thân nhân ở quê nhà, chia sẻ những khổ đau chất ngất, đọa đày dưới chế độ mới như những lời ca sau đây

“Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay …
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đoạ đày.
Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa
Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương
Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh
Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn ….
Con gởi về cho cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình …
” 
 
Năm 1979, trong Hội Chợ Tết Nguyên Đán được tổ chức tại San Antonia, Texas, Việt Dzũng đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác mang tên “Lời Kinh Đêm” và “Một chút quà cho quê hương”. Khi hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm ấy anh khi anh rời sân khấu. Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này.
 
Năm sau 1980, Việt Dũng trình diễn tại một đại nhạc hội ở Omaha, Nebraska với Sĩ Phú và Mai Lệ Huyền. Sau đó anh đã hát với Khánh Ly, Hoàng Oanh, Trung Chỉnh ở Denver, Colorado những bài hát do anh sáng tác. Ngay lúc đó, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa”. Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).
 
Thập niên 1980 cũng là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu, băng nhạc này đã được đón nhận nhiệt liệt từ California đến tận Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn. Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi. Anh cũng đã hoàn thành cuồn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc” vào giai đoạn này.
 
Trước đó, vào năm 1978 anh đã gặp ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh tại Đại Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt tại thủ đô Washington DC và hai người liền kết nghĩa chị em. Cả hai cùng sáng tác và kết hợp thành một đôi song ca trình diễn khắp nơi trên thế giới, chỉ trừ các nước cộng sản mà thôi. Tại Mỹ, họ đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống. Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử.
 
Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn, cắm trại nằm chờ trước hai ba ngày khai mạc để gặp hai thần tượng của họ. Ở Úc Châu khán giả cũng nhiệt liệt đón chào Việt Dũng và Nguyệt Ánh. Họ đã đi hết những thành phố có người Việt cư trú kể cả những nơi hẻo lánh như Perth và Darwin. Đã có nhiều bài báo và cả hai cuốn sách xuất bản ở Úc được viết ra để ca tụng cho lý tưởng đấu tranh chống cộng và ước mơ ngày về quang phục quê hương của đôi nghệ sĩ này.

Ngay lúc đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước. Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này. Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh chống lại kẻ thù.

Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn với những tên tuổi khác như Huỳnh Lương Thiện, Trương Sĩ Lương, Xuân Nghĩa, Tuấn Minh, Tuyết Mai, Lưu Xuân Bảo..v.v..Trong suốt thời gian hơn 25 năm này, Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam. Từ những buổi văn nghệ gây quỹ cho các con tàu với người vượt biển như Cape D’Anamur, chương trình SOS Boat People, vận động chống lại chương trình cưỡng bách hồi hương người tị nạn, tranh đấu với quốc tế tại Genève, Thụy Sĩ, tại Liên Hiệp Quốc…

Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt.
 
Cũng trong năm 1985 này, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các tờ báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.”
 
Về báo chí, Kể từ năm 1980, anh đã cộng tác với tờ Người Việt (trang song ngữ Tuổi Trẻ). Sau đó anh về làm Tổng Thư Ký cho tờ Nhân Chứng năm 1982. Tờ Tay Phải (của Du Tử Lê) năm 1983. Về Houston làm Tổng Thư ký cho tờ Việt Nam Thương Mại năm 1988. Trở lại California làm thư ký cho tờ Sài Gòn Nhỏ một thời gian và sau đó cộng tác với tờ tuần báo Diễm từ năm 1990.

Năm 1992 trở thành Thư ký toà soạn cho tờ nguyệt san Hồn Việt cho đến bây giờ. Việt Dzũng cũng là cộng tác viên của nhiều cơ quan truyền thông khắp nước Mỹ như tờ Phố Nhỏ (Washington DC), Thế Giới Mới (Dallas, TX), Phương Đông (Seattle, WA), Mõ Magazine (San Jose, Sacramento, San Francisco & Oakland), Làng Văn (Canada), Nhân Quyền (Úc), Tin Điển (Đức) .v.v.

Về truyền thông, Việt Dzũng đã mở ra một cánh cửa khác để cho thấy một tài năng thiên phú và đa dạng ở anh. Sau một thời gian dài làm báo, tháng 7 năm 1993 Việt Dzũng được mời làm xướng ngôn viên chính cho chương trình phát thanh tiếng Việt đầu tiên ở Nam California, phát thanh 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày là đài Little Saigon Radio.

Cũng cần nhắc lại là trước đó các đài phát thanh đều làm chương trình theo kiểu ngày xưa, nghĩa là thâu thanh trước đàng hoàng, kỹ càng từng tiết mục và tới giờ là cho phát thanh lên. Nhưng lần đầu tiên, Việt Dzũng đã tạo ra một phong cách mới: anh đưa ra những chương trình trực tiếp truyện trò cùng thính giả  trong buổi phát thanh nên không khí rất vui nhộn và hào hứng, náo nhiệt vô cùng. Sau này các đài phát thanh ở Mỹ và ngay cả ở bên Việt Nam cũng bắt chước theo lối này. Kể cả các đài BBC, VOA phát thanh về Á Châu, cũng thay đổi cách làm việc như cho xướng ngôn viên được phép đùa giởn với thính giả chớ không đọc tin một cách nghiêm trang như ngày xưa.
 
Ngoài việc phổ biến tin tức, âm nhạc, thể thao cuối tuần, giải trí cuối tuần, tin tức Hollywood …Việt Dzùng còn thực hiện chương trình đặc biệt, nhất là chương trình “Tâm tình với nghệ sĩ” được rất nhiều thính giả ưa thích. Trong tất cả các chương trình phỏng vấn này, nóng bỏng nhất và đặc biệt nhất phải nói là chương trình phỏng vấn nữ ca sĩ Ngọc Lan. Vì từ trước tới nay, Ngọc Lan không nhận lời cho ai phỏng vấn cả (vào thời điểm đó), chỉ có một lần cô trả lời trên đài VOA; và Việt Dzũng là người duy nhất phỏng vấn được Ngọc Lan vào tháng 10 năm 1994.


 









 
Năm 1996, Việt Dzũng cùng các bạn đứng ra thành lập một chương trình phát thanh độc lập, đó là đài Radio Bolsa, phát thanh trên ba làn sóng khác nhau ở Nam California, Bắc California và Houston, Texas. Hiện nay , Radio Bolsa đang phát sóng trên 106.3 FM, 1190 AM (Nam California) và 1430 AM (San Jose) với Việt Dzũng và Minh Phương là hai xướng ngôn viên chủ lực cùng với các xướng ngôn viên khác như Nguyễn Phú, Uyên Thy, Mai Trang, Hoàng Trúc, Bích Huyền, Uyển Diễm.v.v. Việt Dzũng đã tạo sự gần gũi, thân mật giữa xướng ngôn viên với thính giả từ già đến trẻ, ở nhà cũng như đang lái xe đi làm với những chương trình đa dạng và phong phú hàng ngày. 
 
Về mặt sáng tác âm nhạc, cho đến nay Việt Dzũng đã sáng tác hơn 450 bài hát về đủ mọi thể loại. Những bài hát về tỵ nạn đã được phổ biến rộng rãi trong hai tập nhạc “Kinh Tỵ Nạn (1980) và “Lưu Vong Khúc” (1982). Những bài hát này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói ra trong những năm lạc lõng của đời lưu vong nơi xứ người. Sau đó là các ca khúc đấu tranh, quang phục quê hương. Nhưng nhiều nhất vẫn là tình ca, sáng tác rất nhiều nhưng chưa phổ biến hết. Những bản tình ca nổi tiếng của Việt Dzũng có thể kể ra như Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Khóc Ru Đời Trinh Nữ, Bên Đời Hiu Quạnh, Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình Như Cây Cà-Rem
 
Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương

Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ, nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ của riêng anh trong một lần phỏng vấn năm 1995 với nhà báo Trường Kỳ như sau “Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của nhữNg rộn rịp âm thanh. Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm.

Cá nhân Việt Dzũng không bao giờ muốn trở thành ca sĩ. Chỉ muốn làm một nhạc sĩ ghi lại những nỗi suy tư của một đời người, và những rung động mà mình bất chợt tìm thấy. Vì thế, nên khi nghe một ca khúc, khi thưởng thức một nhạc phẩm nào, hãy nghe bằng sự rung động của chính tâm hồn mình. Bạn sẽ thấy người nhạc sĩ đó đang mang trái tim của họ trải rộng cho bạn nhìn, như một tấm tranh vẽ. Có thể bạn sẽ bắt kịp những nét chấm phá trong tranh. Có thể bạn chỉ ơ hờ lướt mắt qua rồi thôi. Nhưng dù gì đi nữa, mỗi ca khúc hay mỗi bức tranh vẫn là một hiện diện trong đời sống. Và hãy cảm ơn sự hiện diện đó, vì nếu không cuộc đời sẽ chỉ là những vô nghĩa kéo dài. (Việt Dzũng trong “Tuyển Tập Nghệ Sĩ”, 1995)
 
Thực ra, nỗi cô đơn ấy cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những dự án, kế hoạch vẫn được anh theo đuổi càng lúc càng nhiều, choáng ngộp. Việt Dzũng tâm sự là anh mong cho một ngày dài thêm 48 tiếng đồng hồ, thay vì chỉ có 24 giờ để anh có thể hoàn thành bao nhiêu công việc đang vây bủa lấy anh. Ngày tháng vẫn trôi nhanh, trôi nhanh. Những hoạt động của anh gần đây thì nhiều vô số kể. Chỉ nói riêng về sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca Việt Nam thôi, thì những lần công tác nổi bật nhất là:
 
Phát động chiến dịch “Tưởng Niệm 50 năm Hiệp Định Genève (1954-2004)”, biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 3-4-2004.
 
Đại nhạc hội Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Katrina tổ chức ở Houston (17.9.2005), sau chương trình “Chén Gạo Tình Thương” do Phong Trào Hưng ca phát động từ ngày 9.9.2005.
 
Đại nhạc hội “Đêm Tình Thương” phối hợp với cộng đồng người Việt ở Dallas Fortworth va Trung Tâm ca nhạc Asia (tháng 9-2005).
 
Chương trình vận động cho Dân Oan và Hoà Thương Thích Quảng Độ tại quê nhà năm 2008.
 
Những chương trình Đại Nhạc Hội gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH ở khắp nơi.

Đặc biệt là Chương trình Đại Nhạc Hội Cảm Ơn anh do Hội HO và Thương Phế Binh phối hợp cùng SBTN tổ chức trong suốt 7 năm liên tiếp, không hề vắng mặt anh, đã gây quỹ lên đến hang chục triệu mỹ kim cho những Thương Phế Binh bất hạnh tại quê nhà. Trong những chương trình gây quỹ từ thiện và văn nghệ đấu tranh đó, Việt Dzũng đã đến với đồng hương bằng cung cách rất bình dị thân thương. Luôn luôn có những bạn trẻ vây quanh, tíu tít thăm hỏi, chụp hình chung với anh. Có những bà mẹ già vẫy tay gọi anh lại gần chỉ để được nắm tay anh, nói vài ba câu thăm hỏi với niềm rưng rưng cảm xúc.
 
Nhưng tài năng đặc biệt nhất và nổi bật của anh là kể từ năm 1996, Việt Dzũng chính thức được mời về cộng tác với Trung Tâm Ca Nhạc Asia để biên soạn chương trình và đảm trách vai trò MC trong các chương trình video và đại nhạc hội trực tiếp thu hình. Rất nhiều chương trình Video của Asia có các chủ đề đầy tình người, không nhằm mục đích thương mại, nhưng rất thành công như “Người Lính”, “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến”, “Tình Ca Anh Bằng”. Vài năm gần đây lại có những chương trình Asia video thật giá trị như “Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới”, “Tiếng Hát Trái Tim”, “Mùa Hè Rực Rỡ 2005″. Nhưng đặc biệt nhất là video “Hành Trình Tìm Tự Do”, khán giả đã thực sự xúc động khi thấy Việt Dzũng trở lại các đảo tị nạn ở Đông Nam Á để làm phóng sự video, gợi nhớ cảnh vượt biển của những thuyền nhân tỵ nạn liều chết ra đi tìm tự do ngày xưa.
 
(Hạm Đội Hoa Kỳ cứu tàu vươt biển 1990)
https://www.youtube.com/watch?v=5S9W9-nTgLE

Cũng chính những chương trình video này, khi được chuyển về Việt Nam cùng với các DVD khác như “Cuộc Đổi Đời Bi Thảm, Triệu Đóa Hồng Cho Người Phụ Nữ VN, Cuộc Khổ Nạn của Người VN (Dạ Lan), đặc biệt là Asia 50 “Vinh Danh Nhật Trường” và Asia 51 “Nhạc Vàng, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến” … đã khiến nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng tức tối, khi nhìn thấy Việt Dzũng vẫn tiếp tục xuất hiện trong vai trò làm MC.

Nên vào ngày 18/9/2006 tờ báo Công An Thành Phố HCM đã bắt đầu đăng hai bài viết với đủ thứ ngôn từ hạ cấp nhằm mạ lỵ, phỉ báng và bôi nhọ cá nhân Việt Dzũng thật nặng nề. Có thể nói lần này là lần anh bị những người Cộng Sản VN “đánh” nặng nhứt từ trước đến nay. Nhưng cũng chính những bài báo này đã khiến cho mọi người càng thấy rõ bộ mặt nham hiểm, quỷ quyệt của Cộng Sản VN như thế nào và cũng làm cho nhiều người thông cảm, yêu mến và chia sẻ những oan khiên, thống khổ của người nghệ sĩ này nhiều hơn.

Với tất cả những mũi tên tẩm thuốc độc bắn thẳng vào anh, Việt Dzũng chỉ im lìm, không lên tiếng biện minh hay viết bài đính chính. Anh vẫn âm thầm tiếp tục thực hiện những dự án và càng hăng say hoạt động, cống hiến tài năng của mình cho đồng hương như anh đã làm suốt hơn ba mươi năm nay. Anh vẫn tiếp tục con đường tranh đấu cho nhân quyền và quang phục quê hương trong niềm tin rằng chế độ Cộng sản sẽ cáo chung trong một tương lai rất gần.
 
Năm 2000, Việt Dzũng là một trong những sang lập viên của đài truyền hình Việt ngữ đầu tiên phát hình 24 giờ/ngày tại hải ngoại, SBTN, trong vai trò đào tạo xướng ngôn viên, phóng viên và ban biên tập tin tức hàng ngày của đài. Từ đó cho đến nay, Việt Dzũng đảm nhận vai trò chính trong việc biên soạn tin tức hàng ngày của đài SBTN. 
 
Trong những năm tháng gần đây, dù phải đương đầu với căn bệnh tim và bệnh tiểu đường ngày càng trầm trọng, Việt Dzũng luôn sát cánh cùng nhạc sĩ Trúc Hồ, giám đốc SBTN trong các cuộc vận động cho nhận quyền cho Việt Nam qua các chiến dịch vận động ký thỉnh nguyện thư đến Toà Bạch Ốc và phong trào Triệu Con Tim-Một Tiếng Nói, nhằm kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc, lên tiếng yểm trợ cho các nhà đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam. 
 
Suốt hơn ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhất là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng.

Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu. Nhưng người nghệ sĩ và chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền này vẫn mạnh dạn vượt qua tất cả những khổ nạn chập chùng, oan khiên chất ngất và càng ngày anh càng được nhiều người yêu mến anh thêm.
 
Ngày 20 tháng 12 năm 2013 vào lúc 10:35 sáng, Việt Dzũng đã đột ngột từ trần, hưởng dương 55 tuổi, Anh ra đi mang theo sự thương tiếc của hàng triệu người Việt tại hải ngoại và tại quê nhà. 

https://www.youtube.com/watch?v=CZYSWqKhEgQ
Viet Dzung: Ngay Do

Nhà báo Phạm Long, hiện đang làm việc cho đài truyền hình Vietnam America 57.3, tâm sự: “Tôi rất ngậm ngùi khi hay tin, vì Việt Dzũng là một người làm việc rất chuyên nghiệp. Dù tôi ở trong nghề lâu hơn anh, nhưng chính anh là người luôn có những
sáng kiến và đánh máy rất nhanh, từ tiếng Anh sang tiếng Việt
và từ tiếng Việt sang tiếng Anh.”




Một con người tài hoa,
suốt đời đấu tranh cho nhân quyền

Linh Nguyễn & Ðỗ Dzũng/Người Việt

FOUNTAIN VALLEY, California (NV) - Ca nhạc sĩ Việt Dzũng đột ngột qua đời vì bệnh tim tại bệnh viện Fountain Valley sáng Thứ Sáu, 20 Tháng Mười Hai, hưởng dương 55 tuổi, làm nhiều người, cả đồng hương, đồng nghiệp và bạn bè, bàng hoàng, thậm chí nhiều người không tin là sự thật.

Có thể nói, sự ra đi của người nhạc sĩ tài hoa này làm chấn động cộng đồng người Việt tị nạn không chỉ tại Little Saigon mà còn ở khắp nơi trên thế giới.

“Ðây là một mất mát lớn lao cho đài Radio Bolsa, giới truyền thông, giới nghệ sĩ, nói riêng, và cho cộng đồng người Việt tị nạn, nói chung,” ông Nguyễn Chí Thiện, giám đốc đài phát thanh Radio Bolsa, nơi nhạc sĩ Việt Dzũng làm việc hàng ngày từ gần 20 năm qua, nói với phóng viên nhật báo Người Việt.



Cố ca nhạc sĩ Việt Dzũng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Mới hôm qua, Việt Dzũng gọi điện thoại xin nghỉ bệnh. Hôm nay mẹ của Việt Dzũng gọi vào đài, không gặp anh và bà đến nhà anh thì được biết anh đã được đưa vào bệnh viện cấp cứu từ sáng,” ông Thiện nói thêm.

Ngoài Bolsa Radio, nhạc sĩ Việt Dzũng còn làm việc cho đài truyền hình SBTN và Trung Tâm Asia trong gần 20 năm qua.

Nhạc sĩ Trúc Hồ, tổng giám đốc đài truyền hình SBTN kiêm giám đốc nghệ thuật Trung Tâm Asia, không cầm được nước mắt, nói với nhật báo Người Việt bằng giọng xúc động: “Khi nhận hung tin, tôi chưa chấp nhận sự thật. Cho tới khi vào bệnh viện, thấy Việt Dzũng nằm đó, mới biết bạn mình thật sự đi rồi. Trong gần 20 năm qua, phải nói rằng nếu không có Việt Dzũng thì SBTN và Asia không được như ngày hôm nay. Ðối với tôi, Việt Dzũng vừa là người bạn, người anh, và đồng nghiệp. Sự ra đi của anh quá đột ngột. Chúng ta mất một người rất tài hoa.”

“Ðiều mà tôi nhớ nhất là Việt Dzũng rất thương 'đàn em' như ca sĩ và xướng ngôn viên, những người được anh đào tạo khi mới vào nghề,” nhạc sĩ Trúc Hồ nói tiếp. “Anh làm cho người khác nhiều và sống vì người khác nhiều lắm. Tôi nhớ anh nhất là những lần sang trại tị nạn quay phim, dù chân anh bị tật, đi lại khó khăn, nhưng anh vẫn cứ lướt tới, không bao giờ chùn bước.”

Nhà báo Khanh Nguyễn, giám đốc Ban Việt Ngữ đài phát thanh Á Châu Tự Do, chia sẻ: “Trong 30 năm làm việc chung với Việt Dzũng, qua các chương trình trên hai đài phát thanh Little Saigon Radio và Radio Bolsa, phải nói là chúng tôi thân nhau như anh em ruột. Tôi nhớ gặp Việt Dzũng lần đầu năm 1980 ở Washington, DC. Trước đó, tôi từng nghe những bản nhạc do anh sáng tác. Tôi nhớ hôm đó Việt Dzũng nói với tôi: 'Trước giờ anh nghe những bản nhạc của em rồi, nhưng do người khác hát. Hôm nay anh sẽ được nghe những bản nhạc đó, nhưng bằng chính giọng của em.'”

“Khi rời đài Little Saigon Radio và ra mở đài Radio Bolsa, Việt Dzũng có mời tôi cộng tác tiếp và nói 'anh đừng bao giờ bỏ em nhé.' Nhưng hôm nay, thì Việt Dzũng đã bỏ tôi rồi,” nhà báo Khanh Nguyễn chia sẻ tiếp. “Rất nhiều người hôm nay đến bệnh viện hỏi tôi 'Có thật là Việt Dzũng ra đi?' Nhiều người không tin vào hung tin này.”

Ông Nguyễn Hữu Công, giám đốc chương trình của Little Saigon Radio ở Westminster, từng làm việc chung với cố ca nhạc sĩ Việt Dzũng trong những năm đầu tiên khi đài mới thành lập.

Ông chia sẻ: “Phải nói đây là một mất mát lớn cho cộng đồng, cho phong trào nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam. Việt Dzũng rất tích cực, một tiếng nói được nhiều người tin cậy.”

“Về mặt phát thanh, anh là một người đa tài, và là người đầu tiên trình bày tin tức theo phong cách của người Mỹ,” ông Công nói tiếp. “Hồi bên Việt Nam, thế hệ chúng tôi được huấn luyện đọc tin rất trịnh trọng. Nhưng khi Phạm Long, Minh Phượng và Việt Dzũng ngồi chung, thì chính Việt Dzũng là người trình bày bản tin thoải mái, có tiếng cười, từ đó, ngành phát thanh có thay đổi.”

Ông Nguyễn Hữu Công cho rằng, trong ngành truyền thông, ca nhạc sĩ Việt Dzũng là một nhà báo hơn là một xướng ngôn viên đọc tin tức, vì “anh biết tìm tòi tin tức và gởi đến thính giả một cách nhanh nhất.”


Cố nhạc sĩ Việt Dzũng và xướng ngôn viên Minh Phượng trên trang báo OC Register ngày 1 Tháng Sáu, 1997. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

“Kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi với anh là khi chúng tôi bắt đầu làm chương trình 'Niềm Mơ Ước Mùa Giáng Sinh.' Chương trình hôm đó rất cảm động, ngày nào chúng tôi cũng nhận được thư từ và đóng góp tài chánh, để có thể mua quà Giáng Sinh cho các em nhỏ.”

Tại Trung Tâm Asia, nhiều ca sĩ vẫn còn ngỡ ngàng khi hay tin “người anh” của họ ra đi.

Ca sĩ Ðoàn Phi kể: “Sáng thức dậy, tôi nhận được rất nhiều tin nhắn. Khi mở ra nghe, không thể tin đó là sự thật, vì tôi mới nói chuyện với anh hôm tham gia chương trình Viet Love for Philippines. Cho đến khi biết sự thật, tôi đi lang thang, thẫn thờ ngoài đường, suy nghĩ về anh, một người tôi coi như anh của mình.”

“Rồi tôi đến Asia để hỏi thăm việc hậu sự, rồi đến nhà thờ cầu nguyện cho anh,” ca sĩ Ðoàn Phi nói tiếp. “Anh là một người tài hoa, đóng góp rất nhiều cho cộng đồng. Hầu như cả cuộc đời anh cống hiến cho nhân quyền Việt Nam. Trong nghề nghiệp, anh là một người bạn, người anh, và người thầy của tôi.”

Ca sĩ Hoàng Anh Thư không nén nổi nỗi xúc động, nói chầm chậm: “Em chỉ biết khóc và cầu nguyện cho linh hồn anh thanh thản. Anh là một người rất tốt. Khi em mới tới Mỹ, anh chính là người nâng đỡ em, dạy dỗ từng lời, nhiệt tình và thật thà. Em chắc chắn anh sẽ lên Thiên Ðàng.”

“Em có rất nhiều kỷ niệm với anh. Mỗi lần đi show chung, em là người đẩy xe lăn cho anh, từng ăn cơm chung với vợ chồng anh tại nhà, rất là vui. Nhưng bây giờ, những ngày vui như vậy không còn nữa,” nữ ca sĩ này nói tiếp.

Từ 10 giờ sáng, một số thân hữu nghe hung tin và đến đài Radio Bolsa để hỏi thăm, như nhà báo Du Miên, ông Nguyễn Bá Thành, ký giả Khúc Minh, nữ sĩ Bích Huyền, Giám Sát Viên Janet Nguyễn, ông Lê Công Tâm, ca sĩ Chung Tử Lưu và một số bạn khác.

Khuôn mặt mọi người buồn rười rượi, có người mắt đỏ hoe.

“Mới gặp đó mà nay Dzũng đã đi rồi,” bà Bích Huyền nói trong cơn xúc động.

Trên tường, trước cửa phòng thu âm có treo bức ảnh cố nhạc sĩ Việt Dzũng và xướng ngôn viên Minh Phượng trong một bài viết của báo OC Register ra ngày 1 Tháng Sáu, 1997, nhân dịp khai trương đài Radio Bolsa.

Một tấm ảnh khác trên bức tường đối diện cũng là hình hai người trên trang “Show Saturday” với tựa đề “Tuning In To Little Saigon.”

Ông Nguyễn Bá Thành đến đài để quảng bá chương trình “Niềm Mơ Ước Mùa Giáng Sinh” cho biết: “Tưởng như mới ngày hôm qua thôi, vì tôi và Việt Dzũng cùng làm MC trên sân khấu ngày 15 Tháng Mười Một trong lần gây quỹ ở Dallas cho nạn nhân Philippines.”

“Chính Việt Dzũng và chị Minh Phượng đặt tên cho chương trình 'Niềm Mơ Ước Mùa Giáng Sinh” 21 năm trước trên đài Little Saigon Radio và Little Saigon Foundation. Việt Dzũng là một 'ông già Noen của thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại,'” ông Thành nói thêm.

Trên trang mạng của Người Việt Online, bản tin ca nhạc sĩ Việt Dzũng qua đời có tới hơn 50,000 lượt người vào đọc.

Trên các diễn đàn Internet, mở ra chỗ nào cũng thấy email “Vô cùng thương tiếc ca nhạc sĩ Việt Dzũng” chuyển đi khắp thế giới.

Tất cả các cơ quan truyền thông Việt Ngữ ở hải ngoại đều đưa tin sự ra đi của ca nhạc sĩ được nhiều người biết đến, từ khi còn ở trong nước, cho tới khi ra hải ngoại, nhất là ca khúc do ông sáng tác, “Một Chút Quà Cho Quê Hương.”

Tại hải ngoại, ca nhạc sĩ Việt Dzũng gần như không bao giờ vắng mặt trong các chương trình văn nghệ đấu tranh, nhất là cùng với ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh.

Trong một thông cáo báo chí, nữ Dân Biểu Loretta Sanchez (Dân Chủ-Ðịa Hạt 46) chia sẻ: “Hôm nay, chúng ta mất ca nhạc sĩ Việt Dzũng, một người đóng góp trong hơn 30 năm cho cộng đồng Việt Nam ở Orange County cũng như tại hải ngoại. Ông được biết là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà tổ chức, nhà thiện nguyện, nhà báo, MC và xướng ngôn viên Radio Bolsa.”

“Cá nhân tôi được biết ca nhạc sĩ Việt Dzũng trong vai trò một nhà hoạt động nhân quyền, một người bỏ cả cuộc đời đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam,” bà Sanchez cho biết tiếp. “Tôi xin chia sẻ sự mất mát này với cộng đồng Việt Nam, gia đình cố ca nhạc sĩ Việt Dzũng, và nhất là những người ngưỡng mộ ông. Mọi người sẽ không bao giờ quên ông.”







Ký giả Khúc Minh, một đồng nghiệp của ca nhạc sĩ tại Bolsa Radio, cho biết: “Việt Dzũng qua Mỹ ngày 30 Tháng Tư trên tàu Trường Xuân của cụ Phạm Ngọc Lũy, khi ấy là thuyền trưởng. Anh tốt nghiệp cử nhân Toán và Âm Nhạc đại học Oklahoma. Sau về làm việc chung với thi sĩ Du Tử Lê ở Houston, Texas, và được nhiều người biết đến qua tuyển tập nhạc 'Kinh Tị Nạn' năm 1983, trong đó có bài 'Một Chút Quà Cho Quê Hương.'”

Cũng theo ông Khúc Minh, cuối năm 1984, cố nhạc sĩ Việt Dzũng dọn về California và tham dự nhiều sinh hoạt văn hóa như cộng tác với báo Diễm (Trần Thị Diễm Phúc), báo Hồn Việt (Ngọc Hoài Phương). Anh từng sinh hoạt trong Phong Trào Hưng Ca Việt Nam với ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh, và tham dự nhiều sinh hoạt từ thiện, đấu tranh cho tự do và nhân quyền Việt Nam với các đoàn thể trong cộng đồng. Sau khi làm việc cho đài phát thanh Little Saigon Radio từ năm 1992 đến năm 1996, ông cùng Minh Phượng sáng lập Radio Bolsa ở Westminster từ đó đến nay.

Ngoài ra, ông cũng cộng tác với đài truyền hình SBTN ở Garden Grove và là MC trong nhiều băng nhạc của Trung Tâm Asia.

Hiền thê của ông là nhiếp ảnh gia Bébé Hoàng Anh.

Việt Dzũng tên thật Nguyễn Ngọc Hùng Dũng, sinh năm 1958 tại Sài Gòn.

Thân phụ của ông là Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, và mẹ là cựu giáo sư trung học Gia Long.

Ca nhạc sĩ Việt Dzũng sáng tác nhiều ca khúc, bao gồm nhạc đấu tranh và tình ca. Những ca khúc nổi tiếng của ông, ngoài “Một Chút Quà Cho Quê Hương,” còn có “Lời Kinh Ðêm,” “Mời Em Về,” “Tình Ca Cho Nguyễn Thị Sài Gòn,” “Tình Như Cây Cà Rem,” “Và Em Hãy Nói Yêu Anh,”...









GIẤC MƠ TRĂNG VÀ ĐÁ

Tâm tình người nghệ sỹ tài hoa được tiểu-thuyết-hóa trong tuyển tập truyện ngắn Gió Sông Hồng do nhà xuất bản Thế Giới ấn hành, tháng 5 năm 1992. Typography: Vũ Hoàng Anh & Việt Dzũng. Trình bày bìa: Việt Dzũng.


Trong tôi, sự quyến rũ về Trăng và Đá đến từ trí tưởng lãng mạn qua những huyền thoại dã sử. Hình ảnh những tráng sỹ nhung y gọn ghẽ ngồi mài kiếm dưới trăng, nung nấu ý chí can trường và sẵn sàng nhảy lên lưng chiến mã, lao vào bóng đêm mịt mùng để hoàn thành sứ mạng bí mật, là những giấc mơ rực rỡ, chan hòa suốt tuổi thơ tôi. Ngay cả sau cơn sốt định mệnh làm tê liệt đôi chân mà giấc mơ tráng sỹ mài kiếm dưới trăng vẫn còn tức tưởi.

Giấc mơ đó đậm nét đến nỗi mọi ước muốn nào đẹp đẽ, tôi đều gọi chung là “Giấc mơ trăng và đá”. Thậm chí, đôi lúc tôi cảm thấy sự tan vỡ về giấc mơ huyền thoai kia đã làm tôi đau đớn hơn cả những thiệt thòi, cô độc mà một cậu bé bẩy tuổi phải chịu khi ngồi trên xe lăn, nhìn đám bạn cùng tuổi vui chơi nhảy nhót.

Ngày đó, tôi chưa ý thức đủ những bất hạnh lớn lao khi đôi chân không còn giúp ích gì cho những phần thân thể khác. Tôi chỉ buồn vì không theo các bạn chạy nhảy, nô đùa được nữa. Tôi cũng không thấy được ánh mắt thương hại của những người xung quanh.

Nhưng năm tháng trôi qua, chiếc xe lăn và cặp nạng gỗ gần gũi với tôi hơn cả cha mẹ, anh chị em, càng gần hơn bạn bè, quyến thuộc Tôi tự tách rời tới một cõi riêng lúc nào không hay. Nỗi đau buồn không lối thoát lăn tròn trong cõi lòng trống trải như những viên đá cuội lạnh lẽo, vô hồn. Những viên đá bất lực chờ cơn giông bão cuốn lăn theo sườn núi, rơi xuống thác ghềnh, trôi ra sông rộng… Tôi nghe thấy bao nhiêu là âm thanh sống động trên đường đi của đá; những âm thanh lúc khẩn thiết, khi reo vui, lúc trầm mặc đợi chờ, khi chan hòa hoan lạc….

Âm thanh ám ảnh tôi không ngừng.

Tôi tìm mua sách nhạc về, tự học và dành hầu hết thì giờ với cây đàn guitar. Một ngày của đứa trẻ tật nguyền có quá nhiều thì giờ rảnh rỗi để học những điều muốn học. Những ngón tay tôi quá nhỏ so với phím đàn, nhưng có hề gì! Giòng âm thanh cuồn cuộn trong tâm hồn tôi là sức mạnh vũ bão, bật ra mười đầu ngón rớm máu. Những buồn tủi, uất nghẹn từ những đường gân rũ liệt ở đôi chân theo âm thanh man rợ, vỡ ra trên từng sợi giây đàn….

– Vũ Thanh! Vũ Thanh! Con đàn cái gì vậy? Giây đàn đứt rồi kìa! Trời! Tay con chảy máu nữa!

Mẹ tôi chạy lại, giằng cây đàn, quăng xuống đất. Mẹ cầm hai bàn tay tôi rớm máu và nhìn tôi bằng đôi mắt đẫm lệ.

Tôi như người vừa tỉnh cơn mơ, nhìn xuống đôi tay mình, nhìn giòng nước mắt mẹ hiền, tôi cảm thấy, không chỉ đôi chân mình rũ liệt mà toàn thân tôi như đều đã rũ liệt theo…

Tôi ngã vào lòng mẹ, khóc như con gái.

Từ hôm đó, tôi khám phá ra nguồn an ủi vô biên là chuyện trò với chính mình bằng thế giới trầm bổng của âm thanh.

Lạ lùng thay, tôi truyền đạt dễ dàng những cảm nghĩ, những rung động của mình xuống đôi tay rồi bật ra trên sáu sợi giây đàn. Ngồi trên xe lăn, trong phòng học, ôm cây đàn guitar trong tay, tôi say sưa hát. Không, phải diễn giải cho đúng là tôi say sưa NÓI-BẰNG-NHẠC, mà sáu sợi giây đàn đã cùng tôi hòa hợp thành âm thanh trầm bổng. Tôi NÓI về tuổi thơ mình bất hạnh, NÓI về niềm khát khao của cánh chim trời được vỗ cánh tung bay, NÓI về những giòng nước mắt không thể chảy khi niềm đau đã tới tột cùng nhức buốt.

Tôi nói dễ dàng, nói miên man, và những ngón tay tôi chạy trên giây đàn, bật lên những cung tơ….

Tôi đang viết nhạc mà tôi không biết! Tôi đang mượn âm thanh ghi lại cảm nghĩ mình mà tôi không hay! Tôi ngạc nhiên thấy cha mẹ quan tâm về những trường canh ghi vội trên khuông nhạc. Tôi còn nghe thấy loáng thoáng, đôi lần, cha mẹ nói với nhau về những thiên khiếu tiềm tàng nơi đứa con trai tật nguyền.

Một buổi chiều, chống nạng đứng ở cuối vườn, tôi bỗng nghe một tiếng chim kêu thảng thốt lạ thường; rồi bất ngờ, một con chim cu đất bay loạng quạng, té nhào xuống bên luống cải. Tôi khập khễnh đôi nạng tới thì con chim sợ hãi chúi mình vào lá rau. Nó không còn bay được nữa. Chắc hẳn nó đã gẫy chân? Hay nó quá non nớt, chưa bay xa được?

Tôi buông nạng, ngồi bệt trên nền đất, vừa quơ tay tìm nó, vừa vỗ về: “Không sao! không sao! để ta băng bó cho”.

Tôi bắt được nó không khó. Nó run bần bật trong tay tôi. Nhìn mỏ nó, tôi biết không phải nó quá non mà là đã quá già. Đôi mắt bé tí của nó như có một lớp màng đục che phủ. Nó đã mù rồi chăng? Tội nghiệp! con chim quá già không còn bay nổi, đành ngã nhào xuống đất chờ chết!

Tôi còn lúng túng ôm nó trong tay thì đã nghe thấy tiếng con chim cu đất khác trên cành cây bã đậu trước nhà như đang thảm thiết khóc bạn. Một lát, nó bay đảo vòng khu vườn sau, nơi nó biết chim bạn vừa ngã xuống. Nhiều lần như thế, rồi nó vỗ cánh bay đi. Tôi nghĩ, nó đã bỏ cuộc.

Ủ con chim thương tích trong vạt áo, tôi mong hơi ấm giúp nó hồi tỉnh nhưng thân thể nhỏ bé của nó bỗng giật từng hồi. Tôi biết nó sắp chết. Tiếng kêu thảm thiết của loài cu đất chợt vang động trên cao, Thì ra, con chim mất bạn bay đi gọi đồng loại tới cứu. Chúng bay rợp cả khu vườn, vừa bay, vừa kêu thương. Trong tay tôi, con chim già đã hóa kiếp! Nước mắt tôi chợt ứa ra. Tôi cũng khóc theo bầy chim trên cây, cùng với chúng, tiễn đưa một linh hồn.

Sau đó, tôi bỏ xác chim vào một hộp giấy nhỏ rồi hì hục đào đất bên gốc hồng, định sẽ chôn nó, Nhưng phút giây, mắt tôi đang nhìn chiếc hộp giấy nhỏ, bỗng không còn hộp giấy mà chợt biến thành chiếc quan tài! Bên trong đó không phải xác chim mà là xác đứa trẻ bị tê liệt đôi chân!!!

Không! tôi không muốn khi chết, tấm thân tàn tật này sẽ phải vùi sâu dưới lòng đất. Tôi cũng thù hận đôi chân vô dụng này, ngay cả khi chết đi tôi vẫn chưa rời bỏ nó được sao?!?! Không! khi chết, tôi muốn được đốt tan thành tro bụi, thoát kiếp tật nguyền, cho tôi hóa thân thành trăng và đá. Ôi! Trăng và Đá, giấc mơ thiên thần tuổi nhỏ giờ trở thành định mệnh khốc liệt trong tôi.

Lửa cháy từ hộp giấy, bén vào lá khô, lan tới đống củi mục. Lửa reo vui như thiên thần, lửa sôi sục vạc dầu hỏa ngục…

– Cháy! Cháy! Trời ơi, Vũ Thanh!

Tiếng mẹ tôi gọi giật, tiếng các em tôi lao xao rồi vòng tay cứng rắn của cha nâng bổng tôi lên. Nước từ bốn phía tạt vào góc vườn hồng ướt đẫm.

– Con làm gì ngoài đó, hả? hả? Tại sao lửa cháy rực trước mặt mà con vẫn ngồi yên?

– Con đốt xác chim. Con giúp nó được thành tro bụi.

Cha tôi giận dữ, quát to:

– Trời! Chính con làm lửa cháy hả? Nếu em con không thấy khói bốc để cả nhà chạy kịp ra thì con biết điều gì sẽ xảy ra không? Đốt xác chim? Thật quái đản! Sao con không sống bình thường được hả?

Tôi ngước nhìn cha. Hình như có những giòng phún thạch đang chảy rần rần trong máu tôi, chảy ào ạt, sôi sục về tim, dồn lên não bộ, chực chờ phun lửa!

Có lẽ cha tôi biết đã nói lỡ lời. Đôi mắt người dịu xuống, nhưng đã trễ. Âm thanh câu nói “Sao con không sống bình thường được hả?” như những nhát búa tàn nhẫn đập liên hồi trên vết thương mưng mủ. Tôi gào lên:

– Sống bình thường, tốt quá! nhưng làm sao? làm sao tôi sống được bình thường? Giúp tôi đi! các người giúp tôi đi! Bảo đôi chân rũ liệt này đứng dậy, bước đi đi! rồi tôi sẽ sống bình thường. Nào! Đôi chân đứng dậy coi!

Tôi chống tay, vùng lên! Đôi chân khốn khổ gập xuống như tầu lá. Tôi lăn tròn trên nền gạch, Mẹ tôi bật khóc, nhào tới, nhưng tôi trừng mắt, lạnh lùng:

– Đừng, đừng thương hại. Cả nhà hãy để tôi yên.

Phút giây đó, dường như toàn thân tôi biểu lộ sự quyết liệt tột cùng. Mọi người lặng lẽ quay vào nhà.
 
MC Việt Dzũng trong buổi ra mắt tuyển tập Gió Sông Hồng tháng 8-1998. Việt Dzũng tay đang cầm sách này.


http://vietbao.com/images/upload/VB/2013/12_2013/24/CD/VIET_DZUNG_cam_cuon_sach_Gio_Song_Hong_8-1992_resized.jpg

Tôi chống nạng, về phòng, và ngồi lặng suốt buổi chiều cho tới khi căn phòng tràn ngập bóng tối thì bất chợt tôi cảm thấy như hồn mình bỗng lung linh ánh sáng huyền ảo của trăng sao. Tôi với tay, lấy cây đàn, bấm bâng quơ vài âm thanh rời rạc. Âm thể ngũ cung buông rơi lãng đãng quanh phòng mà bóng tối đang vỗ về một hồn-thơ-kẻ-lạ. Không phải là tôi nữa vì tôi chưa bao giờ làm thơ. Vậy mà, tôi đang nghe thấy giòng thơ tuôn chảy trong hồn. Làm sao tôi bắt kịp cảm xúc này? Làm sao tôi ghi kịp? Làm sao tôi giữ lại được đây? Mười ngón tay tôi run rẩy, quấn quýt trên sáu sợi giây đàn. Và âm thể ngũ cung đưa tôi tìm gặp hồn thơ. Tôi nghe thấy mình hát lao xao theo nỗi bi thương của cánh chim lẻ bạn, hay chính là sự chia biệt theo lẽ hợp tan của nhân thế:

“Lửa cuồng tim tháng Hạ
Gọi tên người năm xưa
Chỉ ta, cùng cõi lạ
Chờ hoài nắng trong mưa
Chỉ ta, cùng cõi nhớ
Một góc trời rưng rưng
Áo xiêm ai thuở nọ
Còn ngát dậy trầm hương
Chỉ ta, cùng cõi vắng
Vết đau hằn trăm năm
Tóc xanh từng sợi bạc
Suối cạn giòng ăn năn
Chỉ ta, cùng cõi khuất
Sương khói mờ chân mây
Quẩn quanh đời vô ngã
Tri kỷ bình rượu cay
Chỉ ta, cùng cõi chết
Đốm lửa hồng que diêm
Cành khô dăm nhánh gẫy

Chút tro than vô tình…” (*)



Một trăm hai chục trường canh ghi vội từ hồn thơ chợt tới, không sửa chữa, không dũa gọt; khi đàn và hát lên, tôi biết được một điều. Đó là niềm tự tin mãnh liệt, RẰNG TÔI SẼ ĐỨNG DẬY ĐƯỢC Tôi đứng dậy, không bằng đôi chân mà bằng ý chí quyết đi tìm lại giấc mơ Trăng và Đá, giấc mơ thiên thần tuổi thơ đã vỡ vụn theo số phận tật nguyền!

Có phải định mệnh đã dành cho tôi một con đường, như đã dành cho quê hương tôi khúc quanh nghiệt ngã nơi cuối Tháng Tư Đen, để tôi góp phần mọn mình, ghi lại những trang thống hận.

Rời quê trên chiếc ghe nhỏ, tôi đã biết đêm và bão tố, biển cả và đói lạnh, nỗi chết và oan khiên. Là nhân chứng, tôi ôm đàn, chống nạng tới những nơi có đồng bào tôi trôi giạt về. Bằng âm nhạc, tôi nói với thế giới về người Việt Nam vượt biển tìm tự do:

“Đêm nằm nghe bão tố
Tan tác mảnh lòng đau
Sóng cuồng điên phẫn nộ
Xác con giạt về đâu?
Đêm nằm nghe dao nhọn
Rạch nát cùng châu thân
Vết nhơ hằn tủi nhục
Hoen ố đời đoan trinh!
Đêm nằm nghe bóng tối
Dầy đặc nẻo tương lai
Đêm nằm chờ thế giới
Gửi tặng cỗ quan tài!” (*)


Bằng âm nhạc, tôi hát cho những người tù trên quê hương:

“Từ Trảng Bom, Trảng Lớn
Qua An Dưỡng, Hàm Tân
Thanh Phong, Ca Yên Hạ
Sống, chết đã bao lần
Đòn thù, hằn tơi tả
Huyết thổ từng bụm tươi
Xương gẫy dăm ba đốt
Da thịt ghẻ tanh hôi…” (*)


Bằng âm nhạc, tôi nói với người bản xứ về một địa ngục bên kia bán cầu. Đó là quê hương tôi sau cơn hồng thủy:

“Từng ngày, dân chết đói
Từng ngày, tù chết oan
Từng ngày, người ra biển
Từng ngày, tình ly tan…” (*)


Tôi có mặt với cụ già, với sinh viên, với những người còn nuôi dưỡng tình yêu Quê Hương, Dân Tộc để kêu gọi:

“Người đi thôi,
Người đi thôi,
Kìa những lực tàn vẫy gọi
Máu đã loang hồng biển khơi
Mạn thuyền vỡ nát,
Bập bềnh muôn xác nổi trôi
Người đi thôi,
Người đi thôi
Quê nhà xa thẳm
Mẹ chờ trong bóng chiều rơi
Một nắng hai sương
Ruộng cằn sỏi đá
Lúa ngô không mọc, hoa cỏ nào tươi
Đất mẹ đầm đìa nước mắt mồ hôi…” (*)


Bằng âm nhạc, tôi cũng hát lên nỗi thất vọng trước sự hắt hủi, lạnh lùng của thế giới tự do đối với những đồng bào trôi giạt tới sau lệnh đóng cửa trại tỵ nạn. Nào là em bé:

“Cha vùi thây chốn rừng thiêng
Bọn cuồng dâm hại mẹ hiền ngoài khơi
Em bơ vơ giạt xứ người
Chúa ơi! Phật hỡi! Lượng trời ở đâu?” (*)

Nào là cụ già:

“Lìa quê vì khát tự do
Quyết không mang nhục ấm-no-ăn-mày
Chỉ mong khi hiến thân này
Thắp lên được ánh lửa gầy trong đêm” (*)


Nào là trại giam, trại cấm:

“Cùng trên trái đất loài người
Nơi sang tột đỉnh, nơi rơi vực lầy
Rúc chui hang hốc đọa đầy
Ai rao giảng thế kỷ này văn minh???” (*)


Mười sáu năm, tôi tự nguyện làm nhân chứng về những bất hạnh triền miên của dân tộc mình. Dù muốn nhận hay không, tôi đã được đồng bào thương mến gọi là “Nghệ sỹ”. Nghệ sỹ có nhiều địa hạt, tùy ở cơ duyên. Tôi là người nghệ sỹ được sinh ra để gắn liền với định mệnh của lịch sử, của dân tộc. Nếu hiểu cho như thế, hẳn khán thính giả của tôi đã nhiều phần không còn thắc mắc là “Sao nhạc Vũ Thanh thiếu chất thơ mộng, ngọt ngào mà chỉ chất chứa đau thương, uất nghẹn”.

Lại càng không ai biết, từ lâu, tôi giữ cho mình một niềm riêng, rất riêng. Đó là đôi mắt của cô bé có gương mặt búp bê Nhật Bản. Tôi thấy cô bé thấp thoáng ở hầu hết các buổi tổ chức có tính cách xã hội, đặc biệt là vấn đề tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam. Cô bé làm phóng viên bán thời gian cho một vài tờ báo. Cô chụp hình phóng sự, viết bài tường thuật những buổi tham dự. Có lần, tình cờ gặp cô sau hậu trường, cô nói:

– Lần nào nhìn anh Vũ Thanh đứng hát trên sân khấu em cũng muốn khóc.

Giọng cô chân thực, vậy mà tôi suýt nói “Sao vậy? Tại thấy tôi tật nguyền, tội nghiệp quá hả?” Nhưng tôi đã kịp giữ lại. Tôi giận mình vô cùng. Từ lâu, tôi đã vượt qua được mặc cảm tàn tật với mọi người, sao với cô bé, tôi lại để cho mình tủi thân như thế? Tôi ngượng ngùng khi biết mình hay ra vẻ tình cờ ghé tới các tòa báo, nơi cô làm việc, nhưng tới nơi thì lại mong đừng gặp. Điều gì đó, đang xôn xao trong trái tim hai mươi chín tuổi; nhưng lý trí cứng cỏi dập tắt ngay chút mơ mộng chưa nhen nhúm. Lý trí bảo tôi rằng, đừng nhầm lẫn giữa tình yêu và ngưỡng mộ, nhất là với phái nữ, Tôi biết thế, nhưng đôi mắt trong sáng và gương mặt búp bê của cô bé vẫn không buông tha,

Một lần, không hiểu các hội đoàn mời tôi tới buổi họp báo này để làm gì vì chương trình không thấy ghi có phần văn nghệ. Nhưng quý ban tổ chức, tôi cũng chống nạng tới và ngồi dưới hàng ghế khán giả. Mắt tôi không rời bóng dáng cô bé đeo máy hình, nhấp nhô giữa đám đông. Hình như có lúc cô thấy tôi. Cô giơ máy về phía tôi, bấm, rồi mỉm cười. Trên bục gỗ, chủ tọa đoàn tường trình sự việc về những tổ chức ma, đang lũng đoạn sinh hoạt chung với mục đích làm mất chính nghĩa đi tìm tự do của người Việt hải ngoại. Sau đó, ban tổ chức mời đồng bào hiện diện phát biểu ý kiến.

Thật không ngờ cô bé là người đầu tiên bước lên. Cầm máy vi âm, cô nói ngắn và gẫy gọn:

– Tôi thấy thực xấu hổ cho những kẻ lành lặn mà chỉ bước quanh quẩn trong vòng danh lợi phù du, trong khi có những người tàn tật không ngớt xả thân phục vụ lý tưởng tự do và đã bước những bước sâu đậm vào hồn dân tộc.

Cô bé bước xuống trong tiếng vỗ tay.

Mắt tôi cay quá! Và lòng tôi thổn thức quá!

Tôi có được quyền chủ quan để nghĩ rằng, lời phát biểu vừa rồi cô đã dành phần cuối cho tôi không? Nếu có, thì cô bé đã không chỉ nhìn tôi qua lớp hào quang khán thính giả đã cho tôi, mà chính cô đang thắp ngọn nến nhỏ, khởi từ chính nỗi bất hạnh tối tăm của một kẻ tàn tật.

Người đốt đuốc đi trong đêm không phải là người chỉ đi tìm bạn, mà là đi tìm tri kỷ.

Thơ Nhạc ơi, trái tim đau đớn triền miên của tôi có còn đủ thanh xuân để lại dệt cho mình một giấc mơ Trăng và Đá?

---VietDzung

Nhấn vào đây nghe bản nhạc Kinh Hòa Bình, sáng tác của Kim Long, với tiếng hát Việt Dzũng, trong dĩa CD do VietCatholic thực hiện.

Việt Dzũng là một trong những thành viên tiên khởi Đoàn Nghệ Sĩ Công Giáo do LM Văn Chi và LM Trần Công Nghị sáng lập tại Hoa Kỳ. Anh luôn luôn có mặt giúp vui trong những buổi văn nghệ lớn của Công Giáo Việt Nam. Năm 2003 khi người Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại tổ chức Đại Hội Niềm Tin ở Roma, Việt Dzũng là người huy động các ca nhạc sĩ Công Giáo khắp năm châu về Roma trình diễn Đại hội Văn Nghệ.




Little Saigon radio host
and entertainer Viet Dzung dies

December 20, 2013|By Anh Do

Viet Dzung on stage in Little Saigon. (Dan Huynh ) Radio commentator and human rights activist Viet Dzung, who dominated the airwaves for decades in Little Saigon and was one of the early voices in the emerging immigrant community, died Friday. He was 55.

Born Nguyen Ngoc Hung Dung, Viet Dzung became well known in the Vietnamese American community for both his singing and his political commentary on Radio Bolsa, an Orange County-based broadcast that reaches Vietnamese listeners across the country.

Though he was born in Vietnam, Viet Dzung refused to return to his homeland after communist forces took control in the wake of the Vietnam war.

He also told listeners that he preferred not to play music by artists from Vietnam because of the country's refusal to import music recorded by Vietnamese Americans.

"There should be fair trade," he told listeners, joining a movement of Vietnamese American entertainers who took a stand against what they considered one-way commerce

Viet Dzung, along with his drive-time co-host Minh Phuong, kept immigrant listeners informed about such issues as state-controlled elections in their homeland and news about hunger strikes, beauty pageants, cultural holidays and celebrations for veterans.

He told listeners that he covered everything from Hanoi to Hollywood.

Viet Dzung helped organize concerts in his adopted community of Little Saigon to help register immigrant voters and did public service ads on such things as the dangers of cigarettes, targeting individuals from a country with one of the highest smoking rates globally.

In recent years, members of the younger Vietnamese American generation learned of Viet Dzung's social activism through Internet chats and his appearances on videos produced by Asia, a multimedia entertainment company based in Garden Grove.

Born in Saigon on Sept. 8, 1958, Viet Dzung was afflicted with polio as a child and relied on crutches. In later years, he suffered from diabetes. He died Friday at Fountain Valley Regional Hospital.

"I don't believe it. He is still with us and always will be!" fellow entertainer Orchid Lam Quynh said in a Facebook post.

"For more than 10 years, I started my morning with him," wrote Thu Pham, a Santa Ana resident. "He is a treasure. His voice is as familiar to us as his heart."



Posted on 31 Dec 2013
TOP
back to Audio FreeViet INDEX
...MORE COLLECTIONS

  • CORONAVIRUS collection
  • THANK YOU VIETNAM VETERANS
  • FLAG PARADE MAY 2018
  • Candlelight Vigil July 28-2018
  • Candlelight Vigil_Spokane 2018
  • Vietnam Freedom movement
  • www.9binh.com-- Trung cộng tàn ác
  • Kỹ Thuật Biểu Tình + Biểu Ngữ
  • GIAI AO THOI SU:TS Nguyen Xuan Nghia
  • Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá!
  • VIETNAMESE HERITAGE DAY 2018
  • Proclamation 4-point, Spokane, WA 2018
  • Hữu Loan: cố thi sĩ bất khuất của Nhân Văn Giai Phẩm
  • Freedom Flag Parade Spokane 5/20/2017
  • (2) VIETNAMESE HERITAGE DAY 2017
  • Slideshow: My Nation - Dat Nuoc Toi
  • Vietnamese Heritage Day 2017, Spokane
  • PROCLAMATION+Vietnamese Heritage Day 2017
  • GS Vũ Quý Kỳ: Cuộc Bầu cử Hoa Kỳ 2016
  • Trung cộng làm cá chết, biển độc
  • Cố Gs Lưu Trung Khảo: Lạc Quan, Tin Tưởng và Hy Vọng
  • PARADE + VIETNAMESE HERITAGE DAY 2016
  • PROCLAMATION 2016 --SPOKANE
  • Trần Phong Vũ: Một chế độ bạo tàn, không tim óc
  • 25 AUDIO NHẬN ĐỊNH VÀ CHÚC TẾT 2016
  • Gs Nguyễn Ngọc Bích: Chế độ đã đến ngày tàn!
  • Gs Nguyễn Lý Tưởng: Cùng tắc biến, biến tắc thông
  • Đức Giám Mục Nguyễn Văn Long: Hãy cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi!
  • Mặc Giao: Can trường cứu Nước cứu nhà!
  • Nguyễn Tầm Thường: suy niệm & cầu nguyện
  • AUDIO Hồi Ký, Bút Ký, Bình Luận
  • Chữ và Nghĩa (Đoàn Thế Ngữ)
  • 40 Năm: Lm Phan văn Lợi nghĩ gì?
  • Gs Vũ Quý Kỳ: 30/4/75 Lesson
  • GS Nguyễn Lý Tưởng: TS Roland Jacques & Quốc Ngữ
  • THƯƠNG TIẾC VIỆT DZŨNG!
  • Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
  • Collection 2_ Sinh Hoat Ca (32)
  • Collection 1_ Sinh Hoat Ca (40)
  • 28 AUDIO Quý Tỵ 2013 từ Hoa Kỳ
  • 70 NĂM TÂN NHẠC MIỀN NAM (1930-2000)
  • Công Giáo Miền Bắc chống nhà nước VC!
  • Mãi mãi dòng thơ HOA ĐỊA NGỤC
  • Tôi Phải Sống -- Hồi ký đời tù của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
  • Tiến sĩ Nguyễn văn Lương: HẠN CHẾ DU LỊCH & GỞI TIỀN
  • TỘI ÁC KINH KHỦNG của Đảng Cộng Sản Trung Quốc!
  • Buồm cao ghi dấu can trường
  • 4 cuốn Sách Pháp viết về 30-4-1975: Pierre Darcourt, Jean Lartéguy, Olivier Todd, Vanuxem
  • VIỆT KHANG: Lòng nào làm ngơ trước NGOẠI XÂM?
  • 33 BÀI NHẬN ĐỊNH & CHÚC TẾT ĐỒNG BÀO VIỆT NAM
  • THÁI HÀ đấu tranh quyết liệt!
  • LM Nguyễn văn Khải: giáo dân xông vào nơi hiểm nguy!
  • TS Nguyễn Xuân Nghĩa: Giờ Giải Ảo + Bên Kia Màn Khói
  • Ts Phan Văn Song: Tinh thần Đại Việt giữ nước và cứu nước
  • Ts Nguyễn Đình Thắng: Muốn thay đổi, phải hành động!


    Các Đài Phát Thanh Việt Ngữ
    hướng về Việt Nam:

    » VOA
    » BBC phát thanh từ Luân Đôn
    » RFI (Radio France Internationale)
    » RFA - Radio Free Asia
    » VERITAS - Chân Lý Á Châu
    » Đài Phật Giáo Việt Nam

    Các đài phát thanh từ Hoa Kỳ:

    » Radio Bolsa
    » Saigon Radio Hải Ngoại


    « FreeVietNews.com

  •  



      
      Services | © 2008 - 2024
    (1)