Translate this page: English French German Spanish Vietnam
Tôi Phải Sống -- Hồi ký đời tù của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

  Nội dung tác phẩm
 Tôi Phải Sống

của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ


1       2       3     4     5     6     7    8     9    10


11    12   13   14   15   16   17  18   19    20


21    22   23   24   25   26   27   28    29   30


31    32   33   34   35   36   37   38   39   40


41
    42   43   44   45   46   47   48   49   50









Bóng Tối Ði Qua

ngọc yến
 
1.

Seattle chớm thu, nắng vàng rực rỡ. Khu trung tâm Phước Lộc Thọ thứ bảy ngày 3-10-2003 bổng nhộn nhịp xe cộ và khách đến dự buổi ra mắt bút ký Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ.

Chương trình thành công không ngờ! Sách bán gần 300 cuốn, hiếm thấy ở đây! Ðông đảo các đoàn thể, quý thân hào nhân sĩ, và giới báo chí hiện diện gần 400 người. Phòng họp đứng ngồi chật hết chỗ, nhiều cô bác phải ở ngoài sân. Lâu lắm, Seattle mới có một sinh hoạt đông đảo, vui vẻ, hào hứng như vậy. Ngoài phần phát biểu của anh Cần trưởng ban tổ chức, MC Hữu Chí, nhà văn Ngọc Thủy và nhà báo Trần Văn Ngà từ Sacramento, Lm Nguyễn Hữu Lễ là diễn giả chính yếu chiếm hầu hết thì giờ từ 2:00–4:00 chiều.

Lm Lễ tâm tình thân mật, điều hợp chương trình, và trả lời thoả đáng các câu hỏi của người Việt ở vùng vịnh Puget Sound, tiểu bang Washington. Cám ơn Ban Tổ Chức, quý vị cựu tù nhân trại Thanh Cẩm và các đoàn thể bảo trợ cho Lm Nguyễn Hữu Lễ người Cha tinh thần của chúng tôi được ra mắt sách ở thành phố ngọc bích Seattle (Washington State), và thành phố hoa hồng Portland (Oregon).

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ phụ trách giáo xứ Việt Nam ở New Zealand, một đảo quốc du lịch thần tiên ở biển Ðông Thái Bình Dương. Không thể ngồi yên trước hiện tình đất nước, Linh mục nhiều lần bôn ba ra hải ngoại, vận động Nhân Quyền cho Việt Nam. 13 năm tù đày khắc nghiệt để lại thương tích đau nhức, sức khoẻ cha kém nhiều, nhưng ở tuổi 60 Cha trông trẻ trung cường tráng. “Coi vậy chớ hổng phải vậy đâu tụi con ơi, trong người Cha rệu hết trơn rồi!”.

Cha Lễ bị hư cột xương sống, ngồi thẳng không được, đứng không lâu, đã trải qua 4 lần giải phẫu. Nhưng rõ ràng là “Cậu Bảy” khoẻ và ... bụi đời lắm ! Cậu thức khuya, dậy sớm, tỉnh táo không mệt, đầy sinh lực như thanh niên. Tiếng nói Cậu sang sảng, phát biểu khúc chiết linh động, vui tươi hài hước. Cậu thông minh giao tiếp, lanh trí đối đáp những câu hỏi hóc búa hoặc trêu chọc. Dù ở giữa đám đông náo động, Cậu Bảy bình an tự tại, phong thái phiêu nhiên xuất trần, thoải mái thân ái hỏi han từng người.

Có khi Cha Lễ phải theo các chuyến xe lái suốt đêm, nối liền các thành phố xa xôi, ngủ gà ngủ gật. Vị cha già ở tuổi lục tuần không sờn lòng: “Cha sẽ không bao giờ ngưng hoạt động cho Ðất Nước và Giáo Hội đâu tụi con ơi. Cha mà ngừng thì sẽ buồn và chết sớm !”.
 
Lm Lễ không ngờ đồng bào đón nhận sách Tôi Phải Sống nồng nhiệt, quá dự tri. Dự đoán trật, sách in không kịp, in cuống cuồng như chạy giặc, mới đủ sách cung ứng cho các thành phố kế tiếp. Chỉ trong 1 tuần, bay vèo 3000 cuốn. Có nơi, Cha năn nỉ bà con mỗi người 1 cuốn thôi. Cha phải in sách liên tục, gởi in cả bên Ðài Loan, tổng số in nay đã lên 12,000 cuốn.

Sách “Tôi Phải Sống” được ra mắt đúng vào thời điểm toà án Sở Di Trú Hoa Kỳ mời Linh mục Nguyễn Hữu Lễ làm nhân chứng trong vụ xét xử và trục xuất Bùi Ðình Thi. Sự kiện này chưa xảy ra bao giờ trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản. Ðây là tiếng chuông cảnh báo, khẳng định: Hoa Kỳ là quốc gia tự do, nhưng không phải thùng rác chứa chấp tội phạm quốc tế, hay cán bộ Việt cộng!

Lm Nguyễn Hữu Lễ đã ghé nhiều thành phố Hoa Kỳ, để ra mắt bút ký Tôi Phải Sống: Sacramento, Santa Ana, San Diego, San Jose, Oakland, Seattle, Portland. Kế tiếp là Houston, Dallas, Boston, New Orleans... Những cuộc hành trình xa vạn dặm, tiếp xúc hàng chục ngàn đồng bào, ngồi đau lưng, đứng mỏi chân, nói khản cổ. Tuy cực mà Cha rất sung sướng trình làng Tôi Phải Sống, đứa con tinh thần được cưu mang và viết từ năm 1995, sửa tới sửa lui cho hạ bớt giọng.... hằn học. Tác giả Tôi Phải Sống nêu lập trường:

“Tôi muốn chia xẻ kinh nghiệm của tôi với nhiều người. Tôi cũng muốn viết để bày tỏ lòng biết ơn những tâm hồn cao thượng trong số những anh em đồng cảnh, và cả một vài cán bộ mà tôi đã gặp được trong tù. Tôi cũng viết để tưởng nhớ những người đã cùng sống với tôi và đã chết trong tù. Nhưng quan trọng hơn cả, là tôi muốn ghi lại như một bài học lịch sử, gởi tới đồng bào Việt Nam mà tôi yêu mến”
(trang 604)

“Sau hơn chục năm giao tiếp, tôi thấy các cán bộ là những người đáng thương hơn đáng trách. Có đáng trách chăng là một thể chế chính trị chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của đảng, mà đã trói buộc cả một dân tộc vào trong guồng máy đó. Cơ chế đảng cộng sản như một con quái vật do con người sanh đẻ ra nó, nhưng khi sanh nó ra rồi thì không cách gì có thể kềm chế được sự hung hãn của nó. Nó quay ra ăn thịt bất cứ ai, ngay cả người sanh đẻ ra nó
. (trang 572)





2.
K
huya thứ sáu, gần 3 giờ sáng, “ban dịch thuật” còn thức làm việc với Cha Lễ. Dịch sách khó chứ ! Chúng tôi phải tham khảo tài liệu, để đối chiếu ngôn ngữ, qua các tác phẩm nổi tiếng như: Inferno của Dante Alighieri, The Gulag Archipelago của Aleksandr Solzhenitsyn, Laogai the Chinese Gulag của Harry Wu, Origins of the Gulag: The Soviet Prison Camp System 1917-1934 của Michael Jakobson, Labor Camp Socialism: the Gulag in The Soviet Totalitarian System của Galina Ivanova, Cogs in The Wheel của Mikhail Heller, Communist Manisfesto của Karl Marx & Friedrich Engels, 1984 của George Orwell.... Cả tài liệu nhà tù Việt cộng của Ginetta Sagan & Stephen Denney, Viet Nam Under Communism 1975-1982 của Giáo sư Nguyễn Văn Canh, Restoring The Historic Truth của Luật sư Nguyễn Hữu Thống.....

Cha con chúng tôi thảo luận về những phần nào cần dịch trước: trở lại trần gian, cái giá của tự do, chuyện thương tâm, tôi phải sống, tầng đầu địa ngục. Sách sẽ là vũ khí tấn công chủ nghĩa cộng sản, tố cáo Việt Cộng cai trị dân bằng một chế độ toàn kiểm, hiểm ác, sắt máu, có chủ trương tiêu diệt giới trí thức và trù dập mọi thành phần đối kháng.

Chị Kiều Mỹ Duyên đề nghị chuyển bản Anh ngữ lên P.E.N, Văn Bút Quốc Tế,  biết đâu sẽ đoạt giải Nobel văn chương non-fiction! Ðọc Tôi Phải Sống, sẽ hiểu rõ về một hệ thống nhà tù kinh khủng, có thể nói là tồi tệ nhất thế giới! Các trại tù cải tạo Gulag Liên Sô và Trung Quốc có chủ trương giữ cho tù nhân khoẻ mạnh, để lao động và sản xuất ! Trại tù Việt Cộng thì bách hại con người giữa 4 bức tường lạnh, đói khát với cái cùm sắt cột chân người tù dính cứng dưới sàn. Dã man khó tưởng tượng! Cán bộ Việt cộng kiểm soát mọi đồ dùng cá nhân, ăn cướp cả đồ ăn tiếp tế người tù. Tù Việt Cộng là một cỗ máy lạnh băng nghiến thịt người, có tính toán, nhanh hay chậm.

Chúng tôi chọc “Cậu Bảy” có thể trở thành triệu phú, vì sách Tôi Phải Sống dễ trở nên “best seller”. Cha cười nói rằng đã có giải pháp: thành lập một quỹ vô vụ lợi, để giúp xây dựng trường học cho trẻ em Việt Nam ở thôn quê, – như cậu bé “Ðực Mẫm” từng được hưởng nền giáo dục quý hiếm thời thơ ấu. Quỹ thiện nguyện này sẽ kéo dài suốt cuộc đời Cha, cho đến khi Cha khuất núi đi về nước Chúa.

Sách Tôi Phải Sống sẽ lôi cuốn và làm bàng hoàng dư luận ngoại quốc. Vì ngoài việc mô tả tâm tình người Việt, đời sống hậu chiến Việt Nam, sách Tôi Phải Sống phơi bày và nghiêm khắc phê phán chính sách cai trị dân và hà khắc đày đọa tù nhân. Phơi bày Sự Thật kinh hãi về hệ thống “trại tập trung cải tạo” Việt cộng sau 1975.
Chi chít những dữ kiện sống động, thiện ác lẫn lộn:

... xe lô, buồng giam, ánh đèn leo lét, móng cùm, ống bẩu, bầy rận, buồng 6, kẻng báo thức, cán bộ, tù hình sự, tù chính trị, tù Phục Quốc, tù Quân Ðội, tù Biệt Kích, tù Trung Quốc, Ăng-ten, đói, khát, lạnh, đánh đập, ói mửa, giấc mơ ủ rủ, vọng cổ, câu cá, chiến tranh, sông Mã, bắc Mỹ Thuận, thú nhà quê, bè dừa, Thầy Quý, ÐHY Trịnh Văn Căn, Saigon, Hà Nội, Sa Ðéc, Vĩnh Long, Bến Tre, họ đạo La Mã, bài thánh ca Giáng Sinh, Tầu Sông Hương, Khu O, khu kiên giam, buồng kỷ luật, trại Thanh Cẩm, trại Cổng Trời, trại Nam Hà, say sắn, bikini, cán bộ mắt xước, chiếc khăn trắng, mắm lỏng, chiếc áo vàng, Bùi Ðình Thi, tướng cướp Bình Thanh, cô KT, Long đầu trọc, ÐT Trịnh Tiếu, TT Ðặng Văn Tiếp, Bố Chương, đồi Bà Then, đội rau xanh, bể nước, đào tường, vượt ngục, thang dây, thuốc lào, dạy Anh văn, tiếng Quan Thoại, Cộng đoàn tình thương, ý Chúa....

Biết đâu Holliwood sẽ chuyển cốt truyện Tôi Phải Sống này thành phim? Một cuốn phim sống thực, với nhiều tình tiết ly kỳ, ớn lạnh, khác thường. Có vẻ như tiểu thuyết hư cấu, khó tin. Ðộc giả có thể cảm thấy khổ sở như bị tra tấn, bị lôi vào từng đoạn đời một linh mục bất hạnh bị trù dập suốt 13 năm tù khắc nghiệt. Khởi đầu bằng tuổi thơ ấu đơn sơ của cậu học trò nhà nghèo, tinh nghịch, lạc quan sống quanh ruộng vườn làng Hiếu Phụng, tỉnh Vĩnh Long. Rồi cậu được đi học trường làng, lên trung học, 7 năm đào tạo ở Ðại Chủng Viện Sàigòn, rồi thụ phong linh mục năm 1970. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có khoảng 6 năm phục vụ ở các họ đạo Sa Ðéc, Vĩnh Long, Bến Tre, cho đến năm 1976 thì bị tống giam vào nhà tù Việt Cộng.

Này đây cuộc đời phiêu bạt từ chuyến xe lô định mệnh, giã từ mẹ già, vào tù, lên tầu Sông Hương, ra bắc. Cướp tàu thất bại, vào Tù Thanh Cẩm, vượt ngục, bị bắt lại, bị đánh đập gần chết, bị đày đi Tù Cổng Trời. 11 năm tù khổ sai ngoài Bắc, cuộc đời anh hùng phong trần vào sinh ra tử. Năm 1988 thì Lm Nguyễn Hữu Lễ được phóng thích, vượt biên, qua trại tị nạn Thái Lan, rồi được mời sang Tân Tây Lan phục vụ từ 1990, đặc trách việc hướng dẫn Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam tại thành phố Auckland xanh mát.


 
3.

Sách Tôi Phải Sống có bố cục chặc chẽ. Ngữ pháp trong sáng, bình dị. Ðược phân ra nhiều tiểu đoạn, dễ đọc. Có nhiều đối thoại ngắn, sống động và lôi cuốn. Văn phong có khi khoan khoái, dí dỏm, có lúc hồi hộp căng thẳng thần kinh. Có khi táo tợn trong ngôn ngữ giang hồ, bụi đời, trần tục. Khi cao nhã thánh thiện, khi suy tư thâm trầm như nhà hiền triết. Có khi dõng dạc cứng rắn và có tính phân tích như chính trị gia. Từng trang, từng trang, ngôn ngữ trung thực phơi ra từng góc cạnh đời sống nhiều người, những hoàn cảnh sầu khổ bi thảm hay bạo động kinh hoàng.

– “Trong tuần đầu sau khi bị đánh, anh Thuyên và tôi bị cùm chân cả ngày lẫn đêm trong nhà kỷ luật mới. Cả hai chưa ai trở người được, nên phải đại tiểu tiện và ói mửa ngay trên bệ nằm. Xong dùng tay gạt phân xuống sàn và xé quần áo ra lau chùi. Tuy trong buồng có các ống bẩu dùng cho việc đại tiểu tiện, nhưng làm sao chúng tôi sử dụng được khi trở người còn chưa nổi ? Càng ngày đống phân trong buồng càng cao, và bộ quần áo duy nhất của chúng tôi càng nhỏ lại”
(trang 430)

– “Ðói và Rét như cặp bài trùng của yếu tố tiêu diệt. Khi cả hai gặp nhau và hỗ trợ cho nhau, thì sức tàn phá được nhân lên gấp bội. Thân thể con người càng đói thì càng rét, và hễ càng rét lại càng đói. Hai thứ hung thần đó cứ mải mê tranh tài “ai thắng ai”, ngay trên da thịt xanh xao như tàu lá chuối và trong dạ dày xẹp lép của đám tù khốn khổ chúng tôi!
” (Trang 308, khu kiên giam Trại “Cổng Trời”)

Tôi Phải Sống trình bày một hệ thống nhà tù cộng sản duy vật, vô thần. Nó tàn nhẫn, kinh hoàng, vô lương tâm. Nó vận hành có chính sách hẳn hoi. Nó là một guồng máy phi nhân, kiên giam đày ải con người như súc vật. Tôi Phải Sống bộc lộ ra những sự thật khủng khiếp, sẽ làm thế giới sửng sốt. Nó rỉ rả tàn phá trí não và thân xác con người.

Chịu chung số phận với dân tộc Việt, Cha tôi cũng đã bị khổ nhục 13 năm tù đày, trong sự ngóng đợi và nguyện cầu của Mẹ tôi và đàn con tha hương. Lời thương Cha già nói không được, lời dạy con im lìm trong đáy ngục, Mẹ con bám theo đời Cha cùng khổ. Hệ thống nhà tù Việt Nam là địa ngục kinh hoàng, tuyệt vọng, đau đớn thể xác và sầu khổ tinh thần.

Tác giả bình thản kể lại những tình tiết sống thực, không gay gắt, nhiều khi hài hước. Lm Nguyễn Hữu Lễ không viết cường điệu. Tác giả viết một cách tự nhiên, thanh thản. Một ngòi bút cao thượng, bác ái, có tình nghĩa, có đạo lý của một người dân Việt bình thường và một linh mục Thiên Chúa Giáo.

Toàn bộ cuốn sách nói lên nghị lực phấn đấu. Phấn đấu để khỏi trao linh hồn cho quỷ. Phấn đấu để giữ Ðạo. Người người lớp lớp bị xua lên rừng núi hoang sơ buồn tênh, đời sống tan vỡ, nhưng rộng thinh ý chí và nguyện cầu. Họ như bầy chim rối cánh bay tan tác trong gió bão, chiến đấu để giữ hơi thở và tự do tư tưởng. Phấn đấu trước móng cùm, bệnh tật, đói khát, và sự cô đơn tuyệt vọng. Phấn đấu trước bạo lực cải tạo và sự thù hận. Phấn đấu chống lại tư tưởng Mác Lê gian xảo. Cái giá mà Lm Nguyễn Hữu Lễ phải trả, cho thái độ kiên cường bất khuất, là những trận đòn khốc liệt.

– ”Khi bị đánh đập quá nhiều, cơ thể trở nên tê dại và tôi không còn cảm giác đau đớn. Tôi gồng sức chịu đòn và không kêu la. Nhưng lần này lại khác, cơ thể tôi đã bị tổn thương trầm trọng, đến nỗi một cơn ho hoặc cái hắt hơi cũng tưởng như xương cốt long ra từng mảnh. Như thế, có thể hiểu được cú đấm hôm đó của tên cán bộ mắt xước

làm tôi đau đớn chừng nào ! Tiếng kêu “Trời ơi!” lúc đó là một phản ứng tự nhiên, tôi không thể nào kềm chế được. Nhưng đó là tiếng kêu la duy nhất trong những lần tôi bị đánh đập trong nhà tù. Ngay cả trong lần thập tử nhất sinh sau này, tôi cũng không kêu la như thế” – (trang 434-435)
 
Trong cơn sốt thời cuộc sau 1975, trong bối cảnh mê loạn đời tù, người linh mục kém may mắn Nguyễn Hữu Lễ đã dũng cảm phấn đấu dù kiệt sức. Như những con người yếu đuối nhưng không sợ hãi, họ vươn lên cao như sen trong bùn, như mây trời bạt ngàn san dã. Họ là những thân tùng đứng thẳng, những bậc trượng phu có khí tiết.

Ðọc Tôi Phải Sống, thấy được tinh thần vô uý, bất khuất, cá tính quyết liệt, cốt cách anh hùng của Lm Lễ cũng như nhiều tù nhân Việt Nam Cộng Hoà, trong đó có Cha tôi và các Chú Bác Anh thân thương trong gia đình tôi. Họ chung thủy với lý tưởng. Ðối với họ, thiện/ác phân minh, sự thật là sự thật, không thể nói khác. Họ là những dũng sĩ can đảm, không quỵ lụy dưới mọi áp suất. Họ là những bậc anh hùng hào kiệt của núi sông phương Nam, cho dù có ngã xuống vẫn cứng cỏi kiên cường, muôn đời còn lưu danh.


4.

Tôi thấy anh là người thông minh và bạo dạn, nên tôi muốn giúp anh. Anh là một cha đạo. Tôi nghĩ là tình thế này, anh không làm gì được cả, tôn giáo đã lỗi thời rồi. Chi bằng anh hứa với tôi từ bỏ con đường tôn giáo, cưới vợ, lập gia đình như những người khác. Tôi hứa nâng đỡ và cất nhắc anh.

 Ông ta chưa nói hết câu, tôi đã lên tiếng:

– Tôi xin cám ơn lòng tốt của cán bộ. Nhưng cán bộ không có thể hiểu được việc tôn giáo đâu. Nếu cán bộ có vấn đề gì khác, tôi sẽ trả lời. Còn vấn đề tôn giáo là con đường tôi đã chọn, tôi xin miễn bàn ở đây  (trang 312)

– Với tư cách là người Việt Nam, thân xác tôi thuộc quyền chính phủ Việt Nam. Nhưng với tư cách là một người linh mục, linh hồn tôi thuộc về Toà Thánh. Bất cứ điều gì Toà Thánh quyết định, tôi vâng theo.
(trang 581)
 
Nào có dễ uốn nắn khống chế được những anh hùng hào kiệt trong nhà tù! Lm Nguyễn Hữu Lễ là một trong vô số tù nhân có cốt cách vô uý, lì lợm, liều lĩnh, không sợ hãi, kiên cường, đầy nghĩa khí! Người tù kiệt xuất đầy ý chí đó phải chiến đấu với định mệnh nhất là trong những giây phút sinh tử, kiệt lực và buông xuôi nhất: tôi phải sống, tôi phải sống!

Trong cõi địa ngục đó, sự sống mong manh hai bờ tử sinh. Nhịp tim quý như hơi thở, giọt nước, hột cơm, hột muối, khoai sắn hay tình người. Người tù nhẫn nhịn, chờ đợi, cầu nguyện, phấn đấu và hy vọng. Chuá nhật của người tù, sao Chúa chưa đến thăm ?















Từng giây phút lặng lẽ im lìm, cô độc, tăm tối nhất, những người tù kiệt lực chiến đấu với sự yếu đuối của mình. Họ níu lấy hơi thở, vồ vập khí trời, mỗi khi cửa tù hé mở. Họ nâng niu những ý tưởng hay hình ảnh hạnh phúc, bình yên, chân thiện mỹ. Họ cố vượt qua, vươn lên trên tội ác và thù hận. Họ chiến đấu với cái ác và tha thứ. Họ ôm ấp sự lương thiện và tình nghĩa giữa con người. Người tù phải sống để cổ võ Tự Do và Nhân Quyền. Từ đó, từ nhà tù ra hải ngoại, Lm Nguyễn Hữu Lễ luôn là chiến sĩ tranh đấu cho Tự Do.

– Báo cáo cán bộ, tôi xin cán bộ một trong hai điều này: hoặc là cho tôi áo quần để mặc, nếu không thì cho tôi một viên đạn. Tôi là con người, chứ không phải là thú vật mà sống trần truồng ! Vì có dự tính trước nên tôi nói luôn: Nếu tôi chết trong nhà tù này thì thôi. Nhưng nếu tôi còn sống, tôi phải tìm dịp nói cho thế giới biết cách đối xử vô nhân đạo đối với tù chính trị của chế độ cộng sản Việt Nam! Tôi nghĩ rằng, trên thế giới này không một nước nào lại đối xử với tù chính trị cách dã man như vậy ! (trang 436, nhà kỷ luật Trại Thanh Cẩm)

Cũng như Ðức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận và các Linh mục Công Giáo trong tù, Cha Lễ cảm hoá kẻ dữ bằng Ðức Tin, lòng nhân ái và Sự Thật – bí mật và công khai thực hiện các nghi thức thánh lễ phụng vụ lời Chúa, làm phép rửa tội, giải tội, dâng lễ, giảng đức công bình bác ái trong tù. Nhờ mầu nhiệm Ðức Tin, nhờ danh Thiên Chúa cả sáng, trong cơn gian nan thiếu thốn, các vị ấy đã sống cao cả, hiến thân, quên mình, tha thứ, theo tinh thần Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô:

Lạy Chúa
Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chuá
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục
Đem an hoà vào nơi tranh chấp
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm
Để con đem tin kính vào nơi nguy nan
Đem trông cậy vào nơi thất vọng
Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Đem niềm vui đến chốn u sầu.”...


Bấm nghe nhạc  Kinh Hòa Bình
Download    Kinh Hòa Bình

 
“Tự nhiên một nỗi vui vô cùng lớn lao xâm chiếm tâm hồn tôi. Một nỗi vui mà suốt cả cuộc đời tôi chưa bao giờ có được. Niềm vui người được chọn và trao cho một sứ mệnh mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người tù cùng khổ. Tôi coi đây là sự mặc khải riêng tư của Chúa đối với tôi. Bổng chốc tôi thấy con người tôi khác hẳn. Tôi không còn mong được ra về, cho dù một chút cũng không. Từ nay, nhà tù là nơi tôi sống, những tù nhân khốn khổ là anh em tôi, để tôi yêu thương và an ủi họ. Các cán bộ là những người tôi phải cảm hoá, và chỉ cho họ con đường đức tin và hy vọng.”
(trang 552)
 
– Chính tình yêu và niềm hy vọng của chân lý Phúc Âm đã cho tôi điểm tựa, và tôi chia xẻ hồng ân này với các bạn tù mà tôi có dịp sống chung. Tôi nghĩ rằng, trong môi trường tù ngục đọa đày đó, tôi đã sống sứ mệnh linh mục có nhiều kết quả hơn 6 năm trước ngày tôi vào tù, và có lẽ hơn cả những năm về sau này trong cuộc đời còn lại.
(trang 595) 





5.

Chiều Thứ Bảy Seattle, tụ tập ở nhà anh Cần ấm cúng, vui nhộn, đậm đà tình thân.Vắng vợ, ông chủ nhà lôi ra mấy khúc cá sturgeon đông lạnh cứng ngắc: "các chị làm dùm món cá này nghen, món gì cũng được". Trời, khách muốn ăn phải lăn vô bếp ! Thế là chúng tôi lăng xăng làm món gỏi cá “bí truyền” dưới gầm cầu Nha Trang, dù không phải cá sea bass. Anh Minh Vương, người cho mượn miễn phí phòng họp sinh hoạt ra mắt sách Tôi Phải Sống, vui vẻ làm hoạt náo viên cho nhà bếp.

Cá được xắt lúc còn đông lạnh, miếng cá vuông thẳng. Tôi và chị Lan lu bu nhất: rang và giã mè, xắt củ hành, rửa rau, luộc bún, pha nước mắm tỏi ớt trộn mè. Khách mài râu phải đi chợ mua thêm chanh, nước mắm, dưa gừng, hành ngò, rau thơm. Nhà văn Ngọc Thủy yểu điệu thục nữ vô bếp với chiếc áo dài..... thoòng, thoải mái vắt chanh, tham gia tán dóc. Anh chị em chúng tôi chơi đố chuyện .... bình thủy, ngọc thủy, rồi .... xổ nho luôn một mạch....

cận thủy tri ngư tánh (gần nước, biết tánh cá)
cận lâm thức điểu âm (gần rừng, hiểu tiếng chim)
hàn khí tri tùng tiết (khí lạnh, biết sự tiết tháo của cây tùng)
lâm phong thức trúc can (gió rừng, hiểu sự can đảm của cây trúc)

Anh Minh chủ nhà hàng, làm không khí nhà bếp vui như Tết. Nghe động dao động thớt, Cha Lễ cũng ghé thăm nhà bếp, cười cười tham gia vào những câu chuyện nắng mưa giang hồ, chẳng có đầu đuôi gì cả, mà... nhớ đời.

– Dạ thưa Cha có duyên được ăn cá sturgeon
   của dòng sông Columbia !

– Chỉ cần nói cha “có duyên” là được rồi !

Ngồi quanh bàn tiệc, Lm Nguyễn Hữu Lễ và các cựu tù nhân Trại Thanh Cẩm nhắc nhiều kỷ niệm, hành trình đổi đời và những kỳ tích đời tù. Bàn tiệc có khi lặng thinh trầm ngâm suy tư, có khi cười vui hào sảng. Hình như có vài "dũng sĩ" trên chuyến tầu định mệnh Sông Hương ly kỳ ấy. Trong số này có anh Hữu Chí, là một học sinh 16 tuổi bị đưa ra Bắc, bị tống giam vào trại Tù Thanh Cẩm vì tội dám “xử án Hồ Chí Minh”.

Bàn tiệc họp mặt hôm ấy thật đáng nhớ, nồng ấm, thân thiết. Chúng tôi gặp lại anh bạn Mai Long giang hồ, tác giả Nam Quan Hận Cáo, người bạn sinh viên thời khuấy động University of Washington, UW, thập niên 80. Hai anh Long Dương nói cười rổn rảng đắc ý “ta với nhà ngươi”. Chúng tôi nhắc những bài tráng sĩ ca bi hùng: Trưng Nữ Vương, Chính Khí Việt, Hành Phương Nam.... Anh đọc Bình Ngô Ðại Cáo sang sảng giữa bàn tiệc:    

Múa đầu gậy ngọn cờ phất phới
Ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ
Mở tiệc quân chén rựợu ngọt ngào
Khắp tướng sĩ một lòng phụ tử
 






Thành phố Ngọc Bích vào Thu, vương chút vàng u sầu lãng đãng trên nghìn lá cây tiểu bang Evergreen. Buổi chiều gió thổi thê thê lạnh. Sao tôi có cảm giác băng giá như tuyết rơi. Ðông tới rồi ư ?” Ðông thê thê như gió thổi u hồn, sầu buốt tận lòng người trong cốt tủy”....(Lý Đông A)

Thần trí còn vang vang những lời thơ ái quốc vừa được nhắc trong bàn tiệc. Ngôi nhà dạt dào tiếng nói cười tri kỷ, của những tráng sĩ đồng tâm mài gươm, hẹn ngày trở về non sông mình vạn dặm. Ta tha hương, xa rời cố quận, lòng thường bồi hồi vọng cố hương.

Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc, những lời thề tâm huyết còn nguyên, sóng lớp lớp, rượu ba tuần thuở ấy ! Một trăm năm trước, Cụ Phan Chu Trinh nhà cách mạng chống Pháp đã cất tiếng than “giang sơn hoà lệ khấp anh hùng”, giang sơn chan hoà nước mắt khóc anh hùng, vắng mặt anh hùng tủi núi sông....





6.

Washington thiên sơn vạn thủy. Hoàng hôn bảng lãng cổ tích. Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Có gì buồn buồn trong lòng ta vậy ? Gió se lạnh, đã đến giờ chia tay. Cha Lễ thương mến đi ra tận xe tiễn chúng tôi ra về. Tương kiến thời nan biệt diệc nan, gặp nhau đã khó, chia tay càng khó hơn. Trên đường lái xe về, ngó lui, còn thấy ngàn thông xanh ngắt một màu. Hành trang tôi là những kỷ niệm đẹp vô cùng.

Khuya thứ bảy, trăng nửa mảnh treo trên bầu trời tối đen. Thi sĩ nào đã ví trăng như chiếc bình ngọc, bán trầm thủy để bán phù không. Trăng long lanh trên mặt nước hồ Washington nhiều kỷ niệm. Mấy cha con mình đã tâm tình thật nhiều. Qua những lúc trò chuyện, phỏng vấn, hay những khi trình bày trước đồng bào hải ngoại, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã lập đi lập lại các thông điệp rõ ràng, như trong bút ký Tôi Phải Sống:

– Mặc dù đã im tiếng súng, nhưng cuộc chiến đó không có kẻ thắng, mà chỉ có những người thua. Những người thua cuộc đó chính là toàn thể dân tộc Việt Nam.
 
– Mọi thể chế chính trị đều trôi qua, chỉ có dân tộc Việt Nam là trường tồn.
 
– Hãy dùng lịch sử như một bài học, để có thể tránh sự tái diễn thảm cảnh cho Dân Tộc.

Chúng ta tha thứ tội ác, nhưng chúng ta không quên tội ác. Nó như vết xâm hằn trên thân thể vậy. Tội ác cần được nhắc nhở, đừng cho nó tái diễn.
 
– Chế độ nhà tù Việt Cộng rất tàn bạo. Nó có hệ thống, có chính sách hẳn hoi. Rất độc ác.
 
– Tôi viết cuốn sách này không vì hận thù cá nhân nào cả. Tôi viết để trình bày thảm cảnh của cả dân tộcViệt Nam.
 
– Vào ngày cuối cùng làm nhân chứng trước toà án Hoa Kỳ, tôi có xin vị chánh án khoan hồng cho Bùi Ðình Thi, vì anh cũng chỉ là nạn nhân của một chế độ cộng sản tàn bạo, diễn ra trên đất nước tôi.

– Hãy để cho bóng tối đi qua, và cùng nhau hướng về nguồn
ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc


ngọc yến
Seattle tháng 10.2003


Tôi phải sống

Nguyễn Cửu Vạn, cựu HO















Chúng tôi vừa tham dự buổi tổ chức ra mắt sách "Tôi phải Sống" của Lm. Nguyễn Hữu Lễ trong bầu không khí trang nghiêm tại nhà hàng Empress trên đường Alameda, Denver TB. Colorado.

Có rất nhiều nhân vật được mời lên nói chuyện về cuốn sách, tất cả đều cùng nhắm một mục đích là giới thiệu cuốn sách dẫn đến việc trình diện tác giả. Chúng tôi đặc biệt chú trọng nhất đến lời nói của nhà sư Chú Viên Giải. Lâu lắm cá nhân chúng tôi mới được nghe một vị tu hành Phật Giáo nói chuyện. Chú Viên Giải quả thật có tài thu hút thính giả. Thầy nói một câu làm mọi người tấm tắc khen ngợi là "hãy bỏ cái áo xồng mầu nâu này hay cái áo mầu đen kia ra, chúng ta đều là người Việt-Nam cả". Thầy vừa nói câu đó vừa ôm vai linh mục Nguyễn Hữu Lễ. Không còn cử chỉ nào đẹp hơn nữa. Cử chỉ kèm theo lời nói làm hội trường vang tiếng vỗ tay vang dội, cũng làm một số nhiều người sụt sùi rơi lệ.

Lm. Nguyễn Hữu Lễ đến từng bàn, chào bàn như trong các tiệc cưới, bắt tay, hàn huyên và chụp hình với quan khách. Sau đó mới lên sân khấu. Lm. Lễ kể chuyện về tuổi trẻ ở Vĩnh Long, con một gia đình nông dân, cũng đi chăn trâu như bao trẻ em khác. Mãi đến năm 14 tuổi mới được mang đôi săng đan đầu tiên. Mới đây Lm. Lễ bị giải phẩu thay thế đốt xương sống thứ tư nên không ngồi bình thường được.

Với giọng nói đầm ấm rõ ràng ngài cho biết cuốn sách "Tôi phải sống" đã được viết bằng máu, nước mắt 2, 3 lần duyệt lại tư tưởng lời văn để loại ra hơn 700 trang giấy gồm những gì cay đắng do cảm xúc bồng bột quá đáng gây nên. Ngài còn hãnh diện nhắc lại một câu nói mà rất ít có người khác dám nói: "Trước khi là linh mục, tôi là người Việt-Nam". Nhiều vị khác, chúng tôi xin miễn nêu tên, tuyên bố thẳng thừng là không làm chính trị, nhưng điều tra xâu xa hơn một chút thì biết các ngài cũng vượt biên đến trại tị nạn, xin vào định cư tại Mỹ vì lý do tị nạn chính trị, mới tức cười chứ. Ðối với các vị này chắc các ngài có lẽ sinh ra từ bên Rôma, nên là người Vatican, trước khi là người Việt-Nam chăng?

Tôi chưa có dịp xem hết cuốn sách dầy 700 trang này, nhưng tôi đồng ý 100 phần trăm với tác giả như sau: "không nên dùng cái loại đức giả để bênh vực Cộng Sản, biện minh cho tội ác". Ở đời không có công lý thì xã hội sẽ thác loạn. Ai làm ra tội thì phải đền tội, cái đó là luật công bằng. Vì vậy mà người ta mới lập ra hệ thống tư pháp, các toà án để xét xử tội nhân, định tội cho họ.

Ðối với những người chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện chúng tôi xin tóm tắt như sau:

"Cụ Nguyễn Hữu Lễ là một linh mục công giáo, sau năm 1975, bị bắt đi tù cải tạo 13 năm. Trong thời gian đó, cha đã bị chính tù nhân Bùi đình Thi cấp bậc Ðại Uý của VNCH, được VC thăng chức cho làm Trật Tự (Trại trưởng) đánh đập đến gần chết. Tên Bùi đình Thi đã giết chết cựu Dân Biểu Châu văn Tiếp và Ông Lâm Thành Văn, cũng như đánh đập tàn nhẫn các tù nhân khác trong đó có Cựu Ðại Tá QLVNCH Trịnh Tiếu, giáo sư Nguyễn Sĩ Thuyên. Riêng cha Lễ bị đánh ngất xỉu, hộc máu mồm, dồn máu mũi, gẫy ba sườn và hư 4 đốt xuơng sống, may mắn còn sống sót. Năm 1989 Ngài vượt biên đến trại tị nạn Thái Lan và được định cư tại Tây Tây Lan năm 1990, rồi éo le thay sang Hoa Kỳ lại gặp lại BÐT được định cư tại Nam California với diện HO. Ngài đã đến tận tư gia thăm BÐT ngày 9-9-1996, tha thứ cho hắn và chỉ hỏi hắn có một câu thôi là: "Tại sao tôi với anh, không thù không oán, không quen biết nhau, anh cũng có đạo công giáo, tôi là linh mục, mà anh cố tình giết tôi?" BÐT cúi đầu không dám trả lời. Cha Lễ nói là nếu anh không trả lời thì tôi sẽ phải ôm câu hỏi này xuống tận mồ sau khi tôi chết. Hiện tại Sở Di trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ đã câu lưu BÐT, sửa soạn bản án đưa hắn ra tòa, giải giới hắn về Việt-Nam..."

Nhiều người đem giáo lý công giáo ra nói là phải thương người tha tội như chúa Giêsu ngày xưa đã tha cho kẻ giết mình trên cây thập giá, tha cho cả dân Do Thái, như ÐGH John Paul 2 đã vào nhà tù tha thứ cho tên ám sát ngài. Người ta còn hỏi tại sao Cha Lễ không tha thứ cho hắn mà còn ra làm chứng tại Tòa Án đuổi hắn về Việt-Nam bỏ vợ con tội nghiệp như vậy là không đúng tinh thần Kitô Giáo và linh mục. Bùi Ðình Thi cũng là người quốc gia mình mà.

Ta phải phân biệt sự tha thứ cá nhân và công lý cho nó rõ ràng minh bạch. Theo tân ước kể lại thì khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, trời đất liền động địa, núi non tan tác, sấm chớp, màn đền thờ Giêrusalem xé làm đôi từ trên xuống dưới như một sự nổi giận của Thiên Chúa. Và kết quả quý vị có biết dân Do Thái bị những hình phạt gì sau đó không?

Cả dân tộc Do Thái mất đất, phải đi lang thang lưu vong suốt hơn 18 thế kỷ; hơn 6 triệu người Do Thái bị Hitler giết chết trong các hầm hơi ngạt. Ðến năm 1948, người Anh mới dùng thuộc địa của họ một vùng đất bên bờ Ðịa Trung Hải, đẩy dân Palestine vào phía trong dành phía ngoài cho dân Do Thái lập nghiệp và tái lập quốc gia Do Thái ngày nay. Và từ đó đến nay dân Do Thái vẫn không có ngày hoà bình, chiến tranh triền miên với dân Palestine, và các nước láng giềng, bom và lựu đạn nổ liên tục, giết bao nhiêu dân lành.

Tôi không phải nhà thần học, nhưng tôi muốn đặt lên câu hỏi có phải đó là hình phạt Thiên Chúa đã giáng xuống đầu một dân tộc đã dám giết con Thiên Chúa theo lẽ công bằng chăng, mặc dù Chúa Giêsu đã tha tội cho họ.

Còn vụ ÐGH John Paul II, vào nhà tù tha tội cho tên ám sát Ngài thật nhưng luật pháp nước Ý đâu có tha tội cho hắn, vẫn bắt hắn ngồi tù đền tội như thường. ÐGH đâu có quyền xin cho hắn được tự do vì một khi con người đã phạm tội thì phải có pháp luật trừng trị theo luật pháp công minh.

Trở lại vụ Bùi Ðình Thi, cha Lễ cũng đã đến nhà hắn để tha tội cho hắn rồi, nhưng việc hắn giết 2 tù nhân, một là cựu Dân Biểu VNCH, một bạn tù khác là ông Lâm Thành Văn vừa bị đánh đập vừa bị bỏ đói, làm 2 tù nhân khác bị thương nặng vì vết thương hắn gây ra, một đã chết vì vết thương sau này và làm cho một người dở sống dở chết mang tật nguyền đến suốt đời là cha Lễ đây thì mọi người nghĩ sao. Ta đứng ngoài như ông Gàn Bát Sách của tờ VNTP tại Virginia, không phải là nạn nhân thì dễ nói lắm, đến khi chính con cái ông ta, bạn bè thân tình, anh em ông, chính xác thân ông ta bị hành hạ thì thử hỏi ông ta có còn đem cái đạo đức giả ra mà rao truyền hay không?

Cửu Vạn tôi xin can ông Bát Sách ngoan đạo và hăng quá làm cái Chi Chi. Coi chừng người ta tặng ông cái nón cối đó vì bênh BDT!

Bên Mỹ người ta gọi những hành động kẻ đứng ở ngoài phê bình chỉ trích là "second guess" hay là làm "Monday quaterback". Khi xong việc rồi mới chỉ trích phê bình: "Sao không làm thế này, thế nọ, có hay hơn không, làm như thế không được, v.v..". Một kiểu chõ mồm vào dậy khôn một cách vô tội vạ.

Chúng tôi những nguời Việt Quốc Gia Hải Ngoại, đặc biệt là giới Cựu Tù Binh Chính Trị (HO), những người đã từng bị Cộng Sản dùng những tên ăng ten hèn hạ để nghe ngóng báo báo cáo, hành hạ, đánh đập, bỏ đói, nhẩy xuống thùng phân, khẳng định rằng không coi Bùi Dình Thi là cùng giới tuyến, cùng phía với quân nhân Quân Lực Việt-Nam Cộng Hoà chúng ta. Hắn chỉ là một giống lộn chuồng, một kẻ vì quyền lợi cá nhân cam nhận làm ăng ten, phản bội phe Quốc Gia làm gián điệp cho đối phương, làm tôi mọi cho Cộng Sản, lấy dao đâm đàng sau lưng chiến sĩ.

Hắn đã lên đến cấp bậc Ðại Uý, hắn có đủ thông minh, suy nghĩ hệ quả trước sau, nhưng hắn đã lợi dụng chức vụ trật tự trong trại báo cáo thêu dệt hành động của bạn tù, đem oán hờn trút hết lên thân xác còm cõi của bạn đồng tù, như một con thú dữ. Hắn chỉ là một tên Việt-Cộng đội lốt Quân nhân VNCH mà thôi. Giả dụ như không có một ai sống sót thì hắn đã thoát hiểm rồi chăng. Cũng vì lý do đó mà hắn cố ý giết chết 5 tù nhân trốn trại đặc biệt này để bịt miệng chăng? Có thể đây là câu trả lời mà Lm. Lễ đang muốn tìm hiểu chăng? Hắn đã làm những tội ác tầy trời như vậy thì không có lý do nào hắn được hưởng những quyền lời dành cho cựu tù nhân chính trị của chúng ta.

Việc đưa hắn ra tòa xét xử là đúng và cha Lễ còn có bổn phận phải ra làm chứng nói lên hoàn toàn sự thật để Toà Án quyết định mới giải oan cho bạn đồng tù của Cha được, đặc biệt là những người đã bị hắn đánh chết. Cha Lễ là một linh mục có quyền tha cho hắn với tính cách cá nhân nhưng cha không có quyền che dấu tội ác cho hắn. Làm như vậy cha lỗi phép công bằng với bạn đồng tù của Cha, cha còn mang tội đồng loã với hắn nữa theo luật lệ hiện hành. Ðã có khối tên ăng ten trong trại cải tạo sang đây bị tù cải tạo cũ nhận diện và hành hung. Không thấy một ai lên án cái đó cả. Hay là vì Nguyễn Hữu Lễ là một vị tu hành nên chĩa mũi dùi dễ dàng hơn chăng?

Ta đừng nên lẫn lộn công lý và tha thứ. Cá nhân chúng tôi không đồng ý là một kẻ giết người vào tòa cáo giải khai với linh mục đầu đuôi mà linh mục này tha tội và phải làm thinh cho tên sát nhân đó thoát khỏi công lý, không khai báo với Cảnh sát. Ðặt thêm trường hợp giả thử tên sát nhân kia là một "serial killer" (giết người từng loạt), cũng làm cái màn xưng tội liên tục như vậy mỗi khi giết người để được Giáo Hội bao che thì bên công giáo nghĩ sao đây?

Chấp nhận giáo điều để cho hắn tiếp tục phạm tội ác hay bỏ giáo lý đi báo với Cảnh sát bắt giữ hắn để cản trở việc hắn giết thêm người vô tội. Một đàng thì cứu giúp kẻ phạm tội để khỏi bị luật pháp trừng trị nhưng đồng thời cũng đồng loã buông tay để cho các người vô tội khác bị giết. Chúng tôi xin dành quyền trả lời và hành xử đó cho các vị tu hành bên Thiên Chúa Giáo. Có lẽ cũng vì triết lý giáo luật này mà GHCG ngày nay quá mang tiếng về vụ các linh mục phạm tội tình dục với con nít, rồi đi xưng tội mà vẫn được cấp trên bao che và không bị tố cáo với chính quyền chăng?

Ðể kết luận chúng tôi nhận thấy rằng linh mục Nguyễn Hữu Lễ trong thâm tâm đã tha tội cho Bùi Ðình Thi, nhưng cha có bổn phận phải ra toà làm chứng rõ ràng, không những cho quan Toà quyết định và đồng thời cũng tố cáo với dư luận thế giới tội ác tầy trời của đảng Cộng Sản Việt-Nam đã ra lệnh dùng chính tù nhân giết chết, hành hạ, nhục mạ tù nhân, thi hành các mưu kế dã man trong các trại tù cải tạo như thế nào. Sau đó chúng phủi tay, lấy nước rửa tay như quan Pontius Pilate ngày xưa, tuyên bố với thế giới là chúng vô tội. Ðấy chỉ là một vụ điển hình có nhân chứng sống, còn bao nhiêu vụ tàn ác đã xẩy ra tại các trại tù khác nữa thì không ai được biết.

Người Việt-Nam từ Bắc tới Nam và ra đến hải ngoại đã bị lừa dối nhiều rồi, chúng ta hãy mở mắt to ra đừng để bị lôi cuốn vào hoả mù "tha thứ" kẻ thù, "hoà hợp hòa giải" làm ăn chung nữa. Quý vị hãy tìm đọc lại lịch sử cận đại xem bao nhiêu đảng phái người quốc gia ngây thơ vì lòng ái quốc bị Việt Cộng rủ ngủ với chiêu bài "hoà hợp" để rồi bị Hồ Chí Minh giăng bẫy tiêu diệt hết sau năm 1945.


Nguyễn Cửu Vạn










Ca Sĩ Rừng Xanh
và Người Tù Binh
 
Nhất Hướng

Chúng tôi bị đưa đến một cái lán nhỏ trong cánh rừng già vào lúc nửa đêm. Ngọn đèn dầu le lói soi những khuôn mặt lo sợ mệt mỏi nằm ngồi ngổn ngang bên những cái ba lô trên những chiếc chiếu trải vội vã trên mặt đất. Những đôi mắt hướng về chốn xa xăm đầy vẻ lo âu và có lẽ họ có cùng suy nghĩ. “Ngày mai cuộc đời mình sẽ ra sao?”. “Bọn cộng sản sẽ chôn sống mình giống như chúng đã từng làm với dân Huế vào năm Mậu Thân”. “Bọn cộng sản sẽ đày ải mình suốt đời trong rừng sâu nước độc như bọn cọng sản Liên Xô đã từng đày ải hàng chục triệu người ở Tây Bá Lợi Á”. Ngoài kia màn đêm đen như bức tranh sơn mài tiếng kêu của thú rừng hỗn loạn man dại.

Bỗng một tiếng kêu thật to “Trót…Bóp…” trên mái lán làm tất cả mọi người giật mình, xa hơn tí nữa có tiếng kêu “Bóp … thì….Bóp” đáp lại. Vài anh nhốn nháo ngồi dậy hỏi “Con gì kêu vậy ?” ” Nó kêu Bóp thì Bóp”. “Không phải. Nó kêu Trót…Bóp”. Tôi buột miệng nói giọng quả quyết ” Nó kêu Trót..Sót. Nó gọi những người còn sót lại không chạy thoát được”

 Không một ai cười theo lời nói đùa của tôi chỉ có những tiếng thở dài não ruột. Đó là những giây phút u ám sau tháng 4 năm 1975 khi quân đội cộng sản Miền Bắc Việt Nam cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam và lùa hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa giam vào rừng trên dãy núi Trường Sơn.
Phải đến một thời gian sau tôi mới biết tiếng kêu đêm đó là tiếng gọi nhau của loài chim Từ Qui đi ăn đêm với sự tích ngộ nghĩnh như sau: Hai chị em đang đùa giỡn, người em trai vô tình bóp trúng vú chị. Người chị e thẹn ngỡ ngàng run lên. Người em trai không hiểu chuyện gì xảy ra cho chị mình lo sợ chạy trốn vào rừng. Người chị hàng đêm tìm em la vang động núi rừng Bóp thì Bóp không can gì cả. Người em trai trả lời đã Trót Bóp nên không dám trở về.

Hôm sau giữa cánh rừng già mênh mông chúng tôi bắt đầu một cuộc đời mới đầy bi thảm. Một vài anh bạn lượm được vài mảnh sắt vụn của những quả bom. Một lò rèn thành hình để có vài dụng cụ chặt cây dựng trại đón thêm những người bất hạnh mới nhập cuộc. Rừng sâu xa xôi nên thiếu thốn đủ thứ. Anh em lạ nước đau ốm liên miên cũng chẳng có thuốc men. Có anh bị ruột thừa được đưa vào mùng tránh ruồi bu rồi mổ bụng đại ra như mổ bụng heo mặc cho anh ta la khóc. Đêm đến bọn cán bộ cộng sản họp từng nhà nói oang oang động viên cần phải khắc phục khó khăn này khắc phục khó khăn khác.

Sáng ra tiếng kêu “La Fa La Độ” của một loài chim nào mà chính tôi hiện nay vẫn chưa biết mặt vang động cả núi rừng. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ giải lao một anh bạn cho biết trong cuốn sách của bọn cộng sản có viết về con chim này và gọi tên là “Bắt Cô Trói Cột”. Chúng tôi cho rằng cái tên này nghe quá tàn nhẫn và đổi lại tên cho nó là “Khó Khăn Khắc Phục”.

Tháng ngày dài dằng dặc trôi qua, chúng tôi vào rừng đốn mây chặt cây trồng sắn trông khoai v.v… để trả món nợ đã lỡ Sanh Lầm Thế Kỷ. Điều khổ nhất trong những năm tháng tù đày là cái đói: Mỗi buổi tờ mờ sáng khi nhận được một ca quân đội cơm độn sắn ngang miệng ca và chút nước muối tôi thường tính toán chỉ nên ăn một nửa ca và để dành nửa còn lại đến trưa ăn chung với phần ăn trưa để có được một bữa no.

Tôi thường tự vỗ về mình nên bắt chước người Pháp ăn lót lòng buổi sáng thật ít cho nhẹ bụng. Nhưng than ôi khi ăn hết nửa ca cơm độn sắn thì cái đói đã làm tư tưởng tôi thay đổi: Cứ ăn hết rồi trưa sẽ tính sau. Đến trưa khi với phần cơm độn sắn chưa được góc bụng thì tôi hối hận thầm trách mình ham ăn nên chẳng bao giờ có được một bữa no. Đến tối khi phần cơm chiều đã tiêu hết trong bụng từ lâu tôi lại thèm ăn và đành nếm một chút nước mắm để có được mùi vị gì trong miệng.

Nhưng mặn miệng thì phải uống nước nhiều đêm lại mất ngủ vì phải đi tiểu nhiều và chập chờn thao thức với ước mơ được ngậm trong miệng cục đường nằm dưới bóng mát một gốc cây. Rồi lại kinh hoàng khi nghe tiếng kẻng báo hiệu một ngày lao động nặng nhọc đón chờ nhưng cũng lại rất mừng vì sắp được ăn sáng.

Những lúc ngồi trước phần cơm đã được vét sạch sành sanh mà bụng còn đói meo và miệng vẫn thèm ăn vô hạn tôi mới hiểu được tại sao đại văn hào Constantin Vigil Gheorghiu khi lê lết qua các trại tù đã viết thỉnh nguyện thư để xin chút mỡ và tiếng “La Fa La Độ” của con chim rừng nhỏ bé lúc đó lại trở thành tiếng nói của lòng tôi với người chung quanh “Cơm còn Cho Cục”.











Lẫn lộn trong những tiếng chim rừng quanh trại giam tôi còn nghe con chim “Tây Về Chưa Hết” hỏi tôi với giọng đùa cay đắng “Cơm Còn Canh Hết”. Tôi trả lời nho nhỏ trong miệng “Cơm Hết Canh Hết Bụng Đói Meo”. Rồi nhìn ra ngoài hàng rào trại giam nghe rừng cây lao xao những tiếng rì rào buồn nhất thế kỷ.

Điều tàn nhẫn nhất của bọn cộng sản là bắt những người bụng đói ấy làm việc quần quật ngày đêm. Trong những mùa thi đua chúng đẩy chúng tôi ra đồng lúc trăng chưa tàn và trở về lúc trăng đã mọc. Lâu lâu chúng lại lôi một anh em trong chúng tôi ra đánh bề hội đồng để dằn mặt những anh thiếu năng nổ và để tăng năng xuất hoặc chúng đem vào rừng bắn chết vài anh để tạo căng thẳng lo sợ cho đám tù (Trại Kỳ Sơn đã bắn chết các anh Thiếu Úy Hà Thúc Long, Trung Tá Võ Vàng, Trung Tá …Hoàng ).

Đêm đến là những cuộc họp từng nhà với những lời phê bình đấu tố gắt gao để tìm những sơ hở của anh em trong lời nói trong việc làm để hành hạ trả thù. Ai đã từng đi qua các trại tù cộng sản chắc chắn sẽ được thấy từng đoàn người da bọc xương đi ra đồng làm việc. Sáu cân gạo cộng thêm chín cân màu và nước muối cùng rau là tiêu chuẩn ăn hàng tháng đã làm cho anh em không có thăm nuôi kiệt sức chết chôn đầy trong những hốc núi.












Nhưng không ai biết rằng trong các lùm cây bên đường có tiếng của các ca sĩ rừng xanh hỏi “Đi Mô Mà Tội Chơ Tề” “Đi Mô Mà Tội Chơ Tề” khi thấy chúng tôi gánh những người chết vì đói vì làm đến kiệt sức đi chôn như đang ngạc nhiên về hành động đối xử với nhau của thế giới loài người và như cảm thông với những người tù binh đang bị đày đọa trong rừng sâu thăm thẳm.

Âm nhạc không phải là môn tôi ưa thích. Những lúc nhìn ca sĩ Thái Thanh uốn éo đứng hát tôi thấy mệt trong người, ca sĩ Giao Linh rầu máu rên rỉ tôi đứng dậy đi lơ. Nhất là lúc mấy cậu lính của tôi chụm vào nhau nghe ca sĩ Elvis Phương gào lên thảm thiết “Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie ” hoặc “Anh không chết đâu anh”.

Tôi thường chửi đổng “Đ.M. thằng đó đang trù yểu bọn mày nghe nó hát làm gì”. Mà quả đúng như vậy, lúc các anh đang sống đang ngon lành thì chúng than khóc về những cái chết, lúc các anh từ chết đến ngất ngư thì chúng chạy đi đâu biệt tăm chỉ còn lại tiếng chim rừng đầy thông cảm.

Người ta nói sáo là nữ hoàng trong nhạc cụ bằng gỗ vì nó phát ra âm thanh thánh thót xoáy vào tai đi thẳng vào tâm hồn. Kèn Trumpet là vua trong nhạc cụ bằng đồng vì nó kéo được cảm xúc con người dài theo tiếng nhạc. Nhưng dù cho nữ hoàng và vua có hợp lực nhau lại cũng không bằng một phần của tiếng chim kêu.

Tất cả phát minh nói cho cùng là chỉ là những thứ được bắt chước từ thế giới tự nhiên mà con người dẫu thông minh tới đâu cũng không thể phát minh được những gì ngang hàng với phát minh của tạo hóa. Đó là món quà quí báu mà tạo hóa ban cho con người nếu biết thưởng thức. Đó là những nhạc công thực thà nói lên tiếng lòng bằng những nhạc cụ sống.

Rừng Hiệp Đức, nơi tôi bị giam cầm, không xa Tây Nguyên lắm. Cây trăm năm cao âm u che kín những cuộc đời buồn. Thỉnh thoảng có những khoảng đất trống giữa rừng thì hoa đủ màu nở bạt ngàn lan cả mọi lối đi, chim rừng tranh nhau ríu rít kiếm ăn trong không gian chật hẹp.














Tôi không biết hoa rừng có bao nhiêu thứ, cánh hoa nào đẹp nhất rừng Tây Nguyên. Tôi cũng không biết chim rừng bao nhiêu loại. Trời hé sáng chim rừng ca rộn ràng náo loạn, tìm được miếng ăn chim rừng mừng rỡ hát vang. Lời của chim trong sáng thật thà mang vẻ hoang sơ như thuở thượng đế lập địa khai thiên tạo ra muôn vật.

Đôi lúc rảo bước đi qua khu rừng vắng, im nghe nhạc rừng tâm hồn vui phơi phới, tôi cười một mình rồi cất tiếng hát vang cây rừng họa tiếng theo lời ca miên man. Nhạc rừng ồn ào không nhịp không điệu, lúc mới nghe tưởng rằng man rợ chẳng có lớp lang nhưng nghe lâu mới bất chợt tìm ra nét chấm phá tuyệt vời của âm thanh ngoài tầng nhận thức.

Nhạc rừng cũng như vũ điệu hùm bà lằng của giới trẻ trong các câu lạc bộ huyên náo qua tiếng nhạc Hip Hop lung tung mới nhìn thấy các vũ công huơ tay múa chân thật là man dại chẳng ra đầu đuôi, nhưng nhìn lâu mới lòi ra những vũ công đặc sắc.

Bên này con chim nho nhỏ hỏi “Sao Không Thấy Về Chi Hết?”, bên kia con Đa Đa nhắc lại kỷ niệm xưa “Giắt Bà Xã Đi Chơi Tà Tà”. Kìa con chim Khứu nhảy quanh và đang hót trả lời từng tiếng huýt sáo của tôi. Có những chị em chỉ nói được hai tiếng Ô Kê mà đã lấy chồng ngoại quốc và sống với nhau đến răng long đầu bạc. Tôi huýt sáo, chim hót trả lời qua lại hằng giờ lẽ nào chẳng hiểu được nhau.

Năm ấy bọn cộng sản xây dựng đập Phú Ninh, cái đập mà các chuyên viên VNCH chẳng dám rớ tới vì sợ có ngày nước tràn vỡ đập thổi bay thành phố Tam Kỳ bên dưới. Chúng dùng sức tù của Trại 2 Kỳ Sơn để phát lòng hồ. Chúng tôi ngày ngày đi đốn cây vào mùa trứng chim nở. Phần đông anh em đều có được một tổ chim con để trên đầu nằm nuôi cho qua ngày đen tháng bạc. Chiều chiều đi làm về đút mồi cho chim ăn cũng là mt thú vị của những người tù, chim há miệng thật to ríu rít đập cánh đòi ăn, đút bao nhiêu ăn bấy nhiêu, ăn đầu miệng phọt ra đầu đít rồi vẫn đập cánh đòi ăn.

Tôi chứng kiến tận mặt các ca sĩ rừng xanh từ lúc mới nở từ trong trứng ra đỏ ỏng cho đến ngày lông cánh xù ra đầy đủ. Mỗi ngày đi làm về anh em đều có một xâu châu chấu làm quà. Chim bay ra tận cổng đậu trên đầu trên vai đám tù binh để ríu rít chào đón giành ăn. Người và vật, một kẻ muốn tư do mà chẳng được, một kẻ có sẵn tự do mà chẳng muốn đi, ồn ào quấn quýt bên nhau trên một đỉnh đồi.











Ngày Chúa nhật các anh có nuôi chim tụ họp với nhau vào một góc trại, anh nào cũng đem chim mình… nuôi ra khoe. Con Bìm Bịp to bự chát nhưng lờ đờ hiền khô. Con Chèo Bẻo nhỏ xíu dữ dằn lì lợm. Có con chim màu xanh không biết tên gì chạy tới chạy lui làm con chim nào cũng sợ nhảy tạt ra xa. Một đám người một bầy chim nói cười kêu hót với nhau trong hàng rào trại giam. Mặt trời trôi nhẹ trên cao, thời gian đi chìm trong tê tái.

Tôi có anh bạn là Trung Úy Hạ Quốc Huy, trước khi trốn thoát trại giam đã năn nỉ nhờ tôi nuôi giùm con chim bìm bịp. Khi đói đòi ăn nó nhảy đến bên chỗ nằm ngoạm lấy tóc giựt vài cái kêu tôi dậy. Nó nuốt một cái là xong một con cắc kè, nuốt hai cái là vào trong bụng một con rắn không ai đủ khả năng cung cấp thực phẩm.

Thế nhưng khi bọn cộng sản họp chúng tôi lại để lên lớp, chúng phá nát cả đất nước nhưng miệng luôn ca ngợi một cách trơ trẽn những thành quả cách mạng láo khoét thì con bìm bịp đứng bên thành cửa sổ ngưng rỉa cánh chõ miệng vào lớp học nói “Bịp! Bịp! Bịp!” làm tôi cười khoái trá.

Thế rồi một hôm có tiếng chim gọi đàn rộn ràng trong sớm. Bầy chim được nuôi trong trại tù lần lượt bay theo đàn người như những người tình người vợ bỏ người tù ra đi. Người xưa dạy rằng nước mất thì nhà tan nên lâu lâu có anh được thăm nuôi xách gói quà vào mời anh em ăn một miếng rồi nói nho nhỏ “vợ tao bỏ tao rồi!” cũng như “Con chim tao nuôi bay mất rồi!”.

Thế nhưng cũng có nhiều người vợ chung thủy nuôi con chờ đợi chồng như con chim Bìm Bịp to lớn dềnh dàng đi tới đi lui mãi trong trại giam không hiểu vì tính chung thủy không muốn rời xa các tù binh hay tính làm biếng đi kiếm ăn.

Năm ấy chúng tôi lại bị chuyển lên giam ở trại tù An Điềm. Tôi bị giam vào đội quản chế chung cùng các anh Bùi Đình Khai, Hồ văn Ánh, Lê Xuân Nhuận. Những con người một thời hét ra lửa nhưng nay lại trở nên thật khù khờ. Sau này tôi mới biết ai cũng phải đóng vai khù khờ để đi qua ải vì tên trưởng trại hằng đêm xuống phòng sử dụng độc chiêu của chúng là Phê Bình và Tự Phê Bình cố tìm cho ra sơ hở của người tù để cho vào phòng kỷ luật.

Phòng kỷ luật được xây từng ngăn như những cái nhà cầu, người bị giam nằm dài trên mặt nền thòng hai chân cùm vào một thanh sắt để ngang trên mặt đất. Trung úy Đặng Như An chỉ vì lấy nước uống đụng rớt thùng thơ chúng gán tội phá hoại bị cùm một năm. Lúc ra khỏi phòng kỷ luật người nhỏ lại như một bộ xương người biết đi.

Anh Trương Thanh Tân vì nói chuyện đường từ trại qua Lào bao xa, chúng gán tội lập kế hoạch trốn trại bị cùm không có ngày ra, anh phải cắn lưỡi tự tử. Đại Úy Nguyễn Văn Phượng viết vào bản kiểm điểm lao động không vinh quang, chỉ có hưởng thành quả lao động mới là vinh quang bị chúng cùm tới ngày chết v.v… Phần đông người tù bị vào phòng kỷ luật do những tội không đâu vào đâu, bị bọn cộng sản gán tội lập công hay bị chúng tạo ra tội để làm điển hình răn đe những tù nhân khác. Mười anh vào phòng kỷ luật ra được vài anh, số còn lại ra nghĩa địa.

Vào một buổi chiều, anh Võ Văn Lang, ủy viên trung ương Quốc Dân Đảng, chửi thằng đội trưởng Nguyễn Đức Lộc, tục gọi là Lộc Hô một tên anten ngầm rất nguy hiểm. Y chạy lên báo cáo cùng bọn cán bộ là Võ Văn Lang đã chửi nó và ngăn cản anh em lao động. Y ghép tôi đứng cạnh đó có nghe. Tôi nói không có nghe nên bị hai tên công an đứa đứng trước đứa đứng sau đánh suốt một ngày. Chịu không nổi trận đòn thù tôi phải nhận có nghe, để can tội bao che cho đồng phạm và bị đẩy vào phòng kỷ luật.

Vào một đêm trong phòng kỷ luật tôi mê man và thiếp vì trận đòn hằn và cơn đói hành hạ. Tôi nghe tiếng ai hỏi bên tai “Con có no không?” “Con có no không?” Tôi ngồi dậy chẳng thấy ai ngoài tiếng muỗi bay vo vo chung quanh.

Câu nói như có luồng sinh khí bơm vào người làm tôi khỏe hẳn ra và được ra khỏi phòng kỷ luật vài hôm sau. Kỳ lạ thay, tôi nhớ như in mãi trong trí tôi âm thanh ngọt ngào dịu dàng đầy tình thương kia và tôi biết chắc rằng âm thanh đó không phải là tiếng nói của con người, tiếng nói của con người dù dịu ngọt đến đâu cũng ẩn chứa trong đó những âm thanh man trá tàn ác.

Nếu quả thật có câu chuyện Thiên Chúa sanh ra muôn loài và ông Adam vì lời nghe con rắn mà ăn trái cấm để bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng thì chúng ta cần phải cẩn thận khi nghe lời nói của con người, những hậu duệ của ông Adam, vì trong đó có một phần của ác quỉ. Không phải trong ngẫu nhiên mà loài người hiện nay gọi người cộng sản là con ma cộng sản. Cách tốt nhất là đừng nên nghe những gì người cộng sản nói, cái giá tin vào lời nói của bọn cộng sản đôi lúc phải trả bằng cả sanh mạng mình.

Hơn 12 năm bị giam trong rừng sâu của dãy núi Trường Sơn, tôi biết được một điều cần nói lại cùng với các em nhỏ: Con người là một sinh vật tàn ác nhất trên thế gian, sự tàn ác càng tăng khi đằng sau con người có những tổ chức và thế lực hậu thuẫn và tôi cũng biết thêm trong những cánh rừng kia có những loài chim đã rơi lệ khi nhìn chúng tôi bị đày đọa. Tôi biết tôi viết ra điều sau này sẽ có vài em nhỏ cho rằng tôi quá tưởng tượng nhưng làm sao em biết bia đá không đau, chim rừng không khóc?

Thế rồi cuộc hành quân Nhân Đạo (Human Operation) đã đưa tôi ra khỏi vùng đất dữ Việt Nam và cho tôi đậu và miền đất lành Hoa Kỳ đã được 21 năm qua. Ngày tháng khó khăn ở vùng đất mới rồi cũng qua đi, các bạn tôi nhờ có sự trợ giúp của con cái, đứa lớn dìu đứa nhỏ, cùng nhau hội nhập và thành công trên miền đất lạ.









Quê hương Việt Nam đầy khốn nạn của tôi nằm bên kia trái đất xa vời vợi và mờ dần trong trí óc ngày mỗi già của tôi. Một buổi sáng ngồi đọc báo trên mạng điện toán theo dõi cuộc xử án và cách kết tội hèn hạ của bọn cộng sản đối với bốn thanh niên yêu nước đáng thương: luật sư Lê Công Định, thạc sĩ nguyễn Tiến Trung, anh Trần Huỳnh Duy Thức, anh Lê Thăng Long, những người này sẽ bị bọn cộng sản dẫn qua con đường mà tôi đã bị dẫn qua vào 35 năm trước.

Tôi bỗng nhớ lại những năm tháng tù đày và viết lại trên bài viết này. Tôi nghĩ người cộng sản cần phải chấm dứt gây thêm những tội ác với dân tộc Việt Nam. Yêu nước mà không yêu đảng cộng sản, không muốn thực hiện chủ nghĩa cộng sản là quyền của mọi người. Đừng nên dùng bạo lực bắt dân Việt tôn thờ một thứ mà cả thế giới đều đã cho vào thùng rác: Chủ nghĩa cộng sản.

Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh



Vị Thánh trại Nam Hà
Lê Khánh Thọ (France)


Mấy hôm rồi giấc ngủ vẫn chập chờn chưa quen giờ giấc thay đổi. Tiếng chim hót líu lo vào buổi sáng mùa hè Cali và sự yên tĩnh dễ chịu tương tự như vùng tôi ở bên nước Pháp. Vợ chồng cô em út đã đi làm từ lâu. Có tiếng lách cách khóa cửa. Tôi lên tiếng:
— Ba hở Ba?
— Ờ, Ba đây. Ba mới đưa hai đứa nhỏ tới trường.
Ba hay thật! 83 tuổI vẫn còn lái xe! Bước ra vườn thấy bóng dáng Ba lù khù đang kéo một thùng rác thật lớn ra sân trước, tôi lật đật chạy tới phụ nhưng Ba tôi khoát tay biểu:
—Thôi con! Ba làm quen rồi!

Tôi ái ngại nhìn theo, bùi ngùi nhớ hình ảnh thời Ba còn giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, oai nghiêm trong bộ quân phục đính ba bông mai trắng.

Buổi trưa chỉ có hai cha con ngồi ăn cơm. Trên bàn bày ê hề thức ăn của cô em út mỗi sáng chịu khó dậy từ 6 giờ nấu nướng. Tôi ngạc nhiên vì Ba không gắp những món ngon mới nấu, Ba cứ loay hoay với hủ cá chà bông. Chắc chắn đồ ăn thừa sẽ cất vào tủ lạnh, rồi lại đổ cho đàn mèo hoang sau vườn như mọi hôm. Tôi hỏi:
— Răng Ba không ăn mấy món kia Ba?
— Con Mỹ gởi từ Sài gòn qua cả tháng mà không đứa mô ăn, ba phải ăn kẻo bỏ uổng. Hồi còn ở tù Cọng sản làm chi có được món quí như ri con!


Tôi nghĩ thầm sẽ dặn cô em bên Việt Nam đừng gởi đồ khô qua đây nữa. Nó không biết Ba vẫn luôn luôn ám ảnh về dĩ vãng hãi hùng của 13 năm tù cải tạo.Tôi tò mò hỏi:
— Hồi ở trong tù Ba ăn chi rứa Ba?
— Ba ăn sắn khô, loại dành cho súc vật ăn và bo bo nguyên vỏ của Ấn Độ viện trợ. Cực khổ lắm! Mỗi ngày đều có năm ba người chết vì đói, vì rét hay lao động kiệt sức.
— Con nghe nói tù cải tạo đói quá vô rừng thấy rắn rít chi cũng bắt ăn phải không Ba?
— Đúng rứa. Con chi cũng ăn, chỉ trừ con bù lon là không ăn thôi! Thành ra có một số người chết thảm vì ăn trúng độc.

Tôi ngạc nhiên:
— Con bù lon là con chi rứa Ba?
— A, lối nói của anh em trong tù. Ý là …bù lon đinh ốc ăn không được!

Tôi bật cười nhưng vội nghiêm lại khi chạm phải gương mặt u uẩn của Ba.
— Có ai bỏ trốn không Ba?
— Chỗ đó toàn là đá vôi. Khó trốn lắm! Trại Ba ở có một số anh em trốn thoát nhưng qua vài ba ngày sau cũng bị bắt lại.
— Họ bị đánh không Ba?

Ba tôi phẫn uất:
— Úi chầu! tụi nó đánh gần chết! Như trường hợp Linh mục Nguyễn hữu Lễ bị đánh và bác Tiếu cũng bị đánh gãy xương sườn.Tội nghiệp Bác qua tới Mỹ chưa sướng được bao lâu thì mất! Chút nữa Ba đưa con đọc cuốn “Tôi phải sống” của cha Lễ viết.

Tôi bàng hoàng nhớ tới Đại tá Trịnh Tiếu, bác nguyên là Trưởng phòng 2, quân Đoàn II, sau này bác làm Tỉnh trưởng Ban mê Thuột, là bạn thân của ba tôi và con gái bác là bạn thân của tôi. Trước ngày vượt biên, Trúc Mai tới từ giã và cho biết bác Tiếu nhất định trốn không ra trình diện cải tạo, nhưng không may cuộc vượt biên thất bại!

Nghe chuyện người đánh người, tôi bỗng nao nao buồn. Cùng một dân tộc, cùng một màu da, cùng một tiếng nói mà họ nỡ lòng nào! Ôi Cộng Sản Việt nam sao tàn nhẫn quá!

oOo


Pha ly nước trà sen bưng ra phòng khách, tôi rón rén ngồi đối diện với Ba. Bất động, ngẩng mặt nhìn vào chân không, trên gương mặt vốn cương nghị của Ba đầy những nếp nhăn tuổi lão hằn sâu biểu hiện niềm chịu đựng, nhẫn nhục và cay đắng. Đôi mắt u uẩn xa xăm dường như đang trở về quá khứ, một quá khứ ai oán của tù nhân chính trị khóc cho thân phận mình, cho đất nước và cho cả một dân tộc Việt Nam đang bị một bọn người dã man, vô lương tâm thống trị.


Tôi chợt nhớ lại khoảng năm 82 đang ở Pháp, được thư cô em bên nhà kể chuyện lần đầu tiên thăm nuôi Ba: “Em nhận Ba không ra chị ơi! Ba rụng hết răng rồi, trông Ba như bộ xương khô xiêu vẹo biết đi!” Mặc dù tôi không quên gởi quà cho Ba nhưng trong tôi vẫn áy náy mang mặc cảm mình thiếu sót bổn phận làm con, vì đã không lặn lội đường xa vạn dặm đến thăm Ba, động viên tinh thần trong lúc Ba đang ở trong tận cùng của nỗi nghiệt ngã cuộc đời.

Mẹ tôi mất vào lúc Ba đang du học bên Mỹ, khi tôi tròn 13 tuổi. Cái tuổi dậy thì đầy mộng mơ nhưng đột nhiên mất thăng bằng, hụt hẫng tình mẫu tử và tôi đã đặt tất cả niềm thương yêu, ngưỡng mộ vào Ba. Cho dù đến bây giờ với số tuổi 53, mãi mãi Ba vẫn là thần tượng của tôi.

Phá tan sự im lặng, tôi mời Ba uống nước và nhỏ nhẹ khơi chuyện:

— Ba có còn nhớ hết những nhà tù của Ba không?
— Nhớ chớ sao không nhớ! Thời gian lao lý của Ba bắt đầu vào tháng 6/1975. Ban đầu chúng nhốt ở Long Khánh, sau nó đưa tụi Ba về trại Suối Máu ở Biên Hòa. Đến tháng 6/ 1976, nửa đêm tất cả bị di chuyển ra ngoài Bắc ở tỉnh Yên Báy. Có lần nhóm Ba đi làm trong rừng, gặp một vài người cũ hồi xưa kiểu như Tri Huyện, Chánh Tổng, Địa Chủ, quan chức chính quyền quốc gia trong liên hiệp Pháp thời trước, nay vẫn còn bị quản thúc trên núi.

Họ kể bọn Cộng Sản độc ác đến nỗi khi họ lao động được 1 hay 2 năm, trồng cây, trồng chuối khá rồi thì tụi nó bắt di chuyển đi nơi khác và bắt đầu làm lại. Cái vòng luẩn quẩn ấy đã mấy mươi năm rồi. Họ uất hận và đau buồn lắm! Họ than thở: “Chúng tôi cứ tưởng các ông ở trong đó ra đây giải phóng chúng tôi. Chớ ai ngờ bây giờ các ông cũng bị lâm vào hoàn cảnh này thật là bi đát không khác gì chúng tôi!”
— Sau đó Ba bị đi đâu?

— Tháng 6/79 Trung quốc rục rịch chuẩn bị cho tụi Việt Cộng bài học, do đó các trại tù bị di chuyển về trại Nam Hà, vùng rừng núi tỉnh Hà Nam Ninh. Trại này gọi là trại Ba Sao. Trại Nam Hà do công an bộ nội vụ quản lý. Chế độ vô cùng khắc nghiệt, cuộc sống hết sức bi thảm. Đúng là địa ngục trần gian! Ngày mô cũng có vài người chết. Khiếp đảm lắm! Những người nào may mắn có đức tin chỉ biết thành tâm cầu nguyện vì đó là nơi bám víu duy nhất để sống và nuôi hy vọng.

Tất cả các tôn giáo đều cầu nguyện. Gồm có đủ các vị lãnh đạo tinh thần như Cao Đài, Hòa Hảo, Công giáo, Phật giáo. Sau gần một tháng khẩn cầu thì tối 12/12/1979 có một vị Thánh giáng cơ vào buồng 1, tức là buồng của Thủ tướng Lộc, Phó chủ tịch Thượng Viện Hoàng xuân Tửu, Linh mục Nguyễn văn Minh, Bộ trưởng Lê ngọc Chấn.








Vị thánh là cụ Phan đình Phùng, danh hiệu Tùng La.
Cảm giác hồi hộp thích thú như hồi còn bé được nghe kể chuyện siêu hình thần bí, tôi rời chỗ xích tới ngồi gần Ba hơn. Tôi nôn nóng:

— Hay quá! Cầu cơ à! Thánh viết chi rứa Ba?
— Thánh cho thơ:

Đông phong thúc dục cảnh sầu thương
Chạnh bấy lòng dân khó liệu lường
Trắc ẩn khuyên ai đừng ngán nổi
Có buồn có khổ rạng đài gương
Sau đó Cụ cho luôn thơ bằng chữ Nho:
Trì trì bộ bộ bộ trì trì
Cử bộ thời lai hữu hỉ kỳ
Nguyên phụ cao bồi tư hóa dục
Thanh phân thiên tảI tụng hòa vy.


Tôi ngẩn người ra:

— Con không hiểu chi hết!
— Ý Cụ dạy là phải chậm từng bước, ơn trên đang lo lắng cho mình. Còn đây là bài Cụ cho về vấn đề cuộc đời là một sự vay trả:

Vay trả cuộc đời thói đổi thay
Bể dâu riêng khóc hận vơi đầy
Tay khoanh há dễ ôm hờn tủi
Mặt ngoảnh đành cam chịu đắng cay
Hay dở biết nhìn khi phải tỉnh
Đảo điên trông thấy lúc cần say
Mày râu giữ trọn nguyền sông núi
Bay thỏa sức bằng đợi gió mây

Cụ dạy bài thơ này thuộc về loại thuận nghịch đọc.
Đọc ngược cũng được.

Mây gió đợi bằng sức thỏa bay
Núi sông nguyền trọn giữ râu mày
Say cần lúc thấy trông điên đảo
Tỉnh phải khi nhìn biết dở hay
Cay đắng chịu cam đành ngoảnh mặt
Tủi hờn ôm dễ há khoanh tay
Đầy vơi hận khóc riêng dâu bể
Thay đổi thói đời cuộc trả vay.


Tôi ngạc nhiên bày tỏ niềm thán phục:
— Tuyệt quá! Thơ đọc được cả hai chiều!

Thấy tôi hăng say theo dõi câu chuyện, Ba sôi nổi kể tiếp:
— Hồi ở trại Yên Báy chật lắm! Phải nằm nửa người thôi, nằm nghiêng nghiêng với nhau vì không có chỗ. Khi về trại Nam Hà cũng chật nhưng may nằm vừa sát. Mỗi phòng có khoảng 100 tù nhân. Ba nằm gần anh Dương ngọc Bảo, cựu đại tá tham mưu trưởng bộ chỉ huy tiền phương quân đoàn 4 và anh Đàm Quang Yêu, cựu Đại tá tư lệnh biệt khu Quảng Đà.

Phòng có hai tầng, tầng trên là ván gỗ. Ba lựa ngủ tầng dưới ciment vì Ba sợ rệp, nhưng nền ciment thì lại bị lạnh lắm! Ba ở buồng 8, thành khẩn khấn nguyện xin Thánh Tùng La soi sáng cho biết tương lai bản thân mình sẽ được trở về quê hương hay là sẽ bị ngã gục trong lao tù Cọng sản. Sáng ngày khi trại tù mở cổng, anh Hoàng xuân Tửu ở buồng 1, là Phó chủ tịch Thượng Viện, đưa bài thơ có ghi dưới hàng chữ “Cho Đại tá Bình hiện đang khấn nguyện ở buồng 8”. Anh kể anh thưa với Cụ: “Con biết anh Bình. Vậy con xin nhận bài thơ này. Sáng ngày lao động con sẽ đưa lại cho anh Bình”.

Tôi nôn nóng:

— Ba còn thuộc không Ba?
Gương mặt Ba rạng rỡ, say sưa ngâm:

Huế xinh Huế đẹp đất thần kinh
Ấp ủ bao năm một khối tình
Dâu bể tang thương cùng tuế nguyệt
Hẹn ngày tái ngộ với Hương Bình

Anh Tửu kể thêm: Cụ giải thích Cụ dùng chữ “khối tình” có ý là tình nhà, tình nước, tình dân tộc. Ba đọc xong lòng cảm thấy vui mừng và phấn khởi vô cùng, chứa chan hy vọng và tin tưởng ở tương lai. Hàng tháng ngày rằm hay mồng một hoặc lúc nào thuận tiện thì anh em tất cả có thành tâm cầu nguyện là được ngài giáng cho thơ, tùy theo sở nguyện của cá nhân hay tập thể. Đặc biệt những bài thơ Cụ cho Ba thường có chữ Hương Bình.

Ngày sau trở lại chốn Hương Bình
Sông núi bấy giờ thật đẹp xinh
Cay đắng không quên điều trọng nghĩa
Gian nan giữ trọn mối thâm tình
Tinh thần thanh thản cùng câu sách
Tâm trí nhẹ nhàng với cuốn kinh
Huyền diệu lẽ Trời là thế đó
Niềm vui tất cả chẳng riêng mình


— Chắc ai cũng xin Cụ cho biết có hy vọng ngày về!

— Đúng như rứa. Cụ giáng thơ:

Thu thiên sương giáng động tây phong
Trục phất nam sơn xuất khí nồng
Nguyệt khuyết tàn vân tà ngọc thố
Đãi thời luyện dực điểu phi thông

Sau này về được rồi thì mới nghiệm lời Cụ cho rất linh ứng. Ngọc thố là con thỏ. Người Tàu gọi mão là thỏ. Đa số anh em được về năm mão, trong đó có Ba.
— Cụ cho tất cả bao nhiêu bài thơ hở Ba?
— Cho chung hơn cả ngàn bài. Tùy theo sở cầu, sở nguyện của mỗi người thì Cụ cho. Phần Ba được khoảng trăm bài. Ba có ghi lại những bài còn nhớ. À, một chuyện đặc biệt: Anh Nguyễn văn Hiểu làm tòa lãnh sự Mỹ ở Nha Trang, anh đã đi theo tàu Thương Tín qua đảo Guam nhưng anh tranh đấu để đòi về. Ngờ đâu Việt Cộng nó cũng nhốt anh ở trại Nam Hà. Ban đêm khi anh em cầu nguyện, thường thấy anh ngồi lâm râm một góc. Sau này mới biết té ra anh cũng đang khấn Cụ, xin Cụ cho biết tương lai. Anh được Cụ giáng thơ:

Chưa hiểu được mình khó hiểu ai!
Nhọc công thở vắn với than dài
Khá khen con tạo đành đưa đẩy
Trách bấy hóa công khéo đặt bày
Lỡ bước sa cơ hay dối trá
Chồn chân thất thế nếm chua cay
Ăn năn sám hối điều sai trái
Có lúc chim lồng sổ cánh bay


Sáng ngày đi lao động anh được người ta đưa thơ Cụ cho anh. Anh vui mừng lạy Cụ quá trời! Hay ở chỗ anh này tên Hiểu nhưng chưa hiểu được người. Chưa hiểu được mình khó hiểu ai!

— Có ông nào hỏi chuyện vợ con không Ba?
— Có chớ! Một ông giám đốc khấn nguyện xin Cụ cho biết vợ anh hiện đang ở bên Pháp, sau này anh được tái ngộ hay không? Cụ cho thơ:

Xa xuôi khó nổi tỏ lòng nhau
Kẻ luống nhớ thương kẻ dãi dầu
Lan quế sớm hôm còn nghĩa nặng
Trúc mai năm tháng đượm tình sâu
Ươm hoa hoa cũ càng thêm sắc
Ủ nhụy nhụy xưa vẫn đượm màu
Nhắn với lang quân niềm trọn vẹn
Có ngày gió Á gặp mưa Âu.


Nhận thơ, anh mừng quá bái lạy bốn phương cảm tạ Trời Đất. Tinh thần anh lên làm các bạn tù cũng vui lây.

Tôi thắc mắc:
— Khi cầu cơ bộ không ai sợ bọn ăng-ten báo cáo sao Ba?
— Sợ chớ răng không sợ! Nhưng mà mình canh chừng tụi nó ngủ mới dám cầu. Có một vị Tuyên úy trình với Cụ hiện bây giờ ăng-ten trong trại rất nhiều, hễ hở ra là tụi nó báo cáo. Cụ hạ bút ngay:
Đông đến mang theo giá lạnh về
Tháng ngày mưa gió liệu mà che
Súng rền đất Bắc nghe chan chát
Gió giật phương Nam thấy lập loè
Lao lý vẫn không quên nghĩa cả
Đắng cay càng mãi nặng tình quê
Mặc ai tráo trở đời đen bạc
Giấy rách nhưng ta giữ lấy lề.


— Chuyện Cụ giáng cho thơ có được phổ biến không Ba?

— À, Ba có hỏi Cụ: “Sau này con được về con sẽ kể chuyện Cụ giáng xuống giúp bọn con, con xin thỉnh ý Cụ?” Cụ dạy: “Cứ nói, nhưng với người thiện tri thức có học mình nên nói. Còn với kẻ phàm phu tục tử đã không biết gì mình không nên. Tại sao? Là vì họ đã không hiểu mà nhiều khi họ còn báng bổ thì sẽ có tội với Trời Đất”.

Cho nên Cụ dạy: “Bỉ nhơn mỗi lần giáng trần đều có cho thơ Đường. Bởi vì sao? Bởi vì âm dương cũng có chánh tà. Nhiều khi ma quỷ nó về, nó hiện vô cơ huyênh hoang, nó nói tầm bậy. Cho nên Cụ Phan đình Phùng, tức là Thánh Tùng La thì luôn luôn phải có thơ Đường. Không phải thơ Đường tức là không phải Cụ. Cụ bảo mục đích Cụ cho con cháu biết rằng: “Cuộc thế có thăng trầm, tình đời có đen bạc nhưng luôn luôn Trời Đất Thần Thánh Thần Linh vẫn ở với thế gian”.

Cụ cho bài kệ. Cụ dạy khi nào nghĩ tới Cụ hãy đọc bài kệ này:
Thiên hành kỷ quá. Thiên địa vô tư. Thậm ư huyền diệu. Nhật chiếu quang minh. Dĩ kinh thiện ác. Củ soát dương trần. Báo ứng phân phân. Cứu thế ưu dân. Tư phần tập đạo. Hạo hạo tự nhiên. Tâm kiên chí lập. Đáo cập thanh cao. Chánh đạo trường tồn. Nhật nhật niệm ngôn.








Những câu chuyện thần bí như loại này chỉ có hai cách: một là tin, hai là không thế thôi. Lý do đơn giản là người trong cuộc, ngoài cuộc nghe kể lại hoặc chứng kiến đi nữa cũng không có cách nào giải thích sao cho có lý. Cũng vì lý do ấy cho nên người ta còn có lý luận rằng: “Tin có thì có, không tin thì không”. Nhưng nói cách nào đi nữa tôi cũng ấm ức trong lòng, nhớ chuyện Mục Liên Thanh Đề được đem ra bàn cãi: Người mẹ tên Thanh Đề ác độc bị đày xuống địa ngục.

Người con là ngài Mục Liên tu hành chứng quả A La Hán, có nhiều thần thông khác người như lên trời, xuống đất, nghe thấy vạn dặm xa, nghe được tiếng nói của các loài khác như quỷ, thần, thú vật…nên được mệnh danh là đệ nhất thần thông. Ngài cất công đi tìm mẹ và cuối cùng ngài tìm thấy mẹ đang bị cực hình trong chín tầng địa ngục A -tỳ đói khát, ma quỷ đang hành tội.

Ngài đã khóc hết nước mắt vì thương mẹ, ngài liền dùng thần thông dâng lên mẹ bát cơm cứu mẹ, nhưng cơm vừa tới miệng bà Thanh Đề tự nhiên biến thành lửa, mẹ ăn không được còn đau khổ hơn! Ngài cầu cứu Phật nhưng biết ác nghiệp của bà Thanh Đề quá nặng không cứu được, Phật bảo: “Con hãy chờ ngày Chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, xin Chư Tăng cầu nguyện thì mới cứu được mẹ con”. 

Ngài làm y theo lời Phật dạy và sau đó người mẹ thoát được địa ngục.

Tôi cảm thấy câu chuyện vô lý. Chư Tăng có quyền năng gì thắng được luật nhân quả!? Tôi đặt nghi vấn có biết bao nhiêu Phật tử đã tin mù quáng vào câu chuyện này chỉ vì ông bà mình tin thì mình tin theo!

May thay một anh bạn Phật tử đã lý giải thế giới tâm linh bằng tuệ giác một cách rất là khoa học. Trước hết anh trình bày về hiện tượng vật lý. Nếu cả ngàn người đi trên một cái cầu không đồng nhịp thì nó không sao, nhưng cũng ngàn người đó cùng bước đồng nhịp thì tạo năng lượng làm cầu sụp đổ. Điều này giải thích nhờ chú nguyện của Chư Tăng đông đảo và thanh tịnh sau 3 tháng nhập thất là trợ lực bên ngoài, cọng với Phật tánh sám hối là trợ duyên nên bà Thanh Đề thoát được địa ngục.

Tôi suy luận qua câu chuyện của những người tù Cộng Sản. Khi những người tù đói, rét, tinh thần bị hành hạ thì chỗ dựa duy nhất của họ là cầu khẩn ơn trên. Sức mạnh tư tưởng, niềm tin tập trung vào quán niệm tâm linh của họ mạnh hơn gấp bội ngày xưa. Chính năng lượng khổng lồ này đã đi đúng tần số.
 

Tôi cố ôn lại bài học lịch sử nhưng chỉ nhớ mơ hồ. Tôi hỏi:
— Con nhớ Cụ Phan đình Phùng đậu Tiến sĩ và chống Pháp, nhưng con quên chi tiết rồi.
— Thời đó Tây lập Vua Đồng Khánh. Tụi quân triều đình đông quá trời và còn có cả Tây hỗ trợ, trong khi trên núi ăn uống vô cùng cực khổ, Cụ bị kiết lỵ. Nhiều lần Cụ bảo: “Thôi bây giờ anh em cứ yên tâm . Để tui ra nộp mình cho nó yên đi”. Anh em khóc quá trời! Thành ra Cụ phải ở lại Cụ gánh. Hoàng Cao Khải phái người đưa thơ lên núi năn nỉ Cụ về làm quan nhưng Cụ nhất quyết với non sông, chống Tây tới giọt máu cuối cùng. Cụ anh hùng khí phách như rứa mới hiển Thánh chớ đâu phải ai chết cũng hiển Thánh!
— Khi Ba được qua Mỹ rồi, Cụ còn giáng cho thơ không Ba?
— Còn chớ ! Thường thì phải trên năm người Cụ mới giáng xuống. Hồi mới qua Mỹ, anh em bên Pháp, Texas qua đây tụ họp với nhau mỗi năm cầu Cụ. Có năm Cụ giáng ở nhà mình nì.
— Lúc còn ở trong tù có bài nào Cụ cho biết Ba được qua Mỹ không Ba?
Mắt Ba sáng lên:
— Có chớ.
Ngày mai tươi sáng chẳng còn xa
Bỉ thái xưa nay thấy đó mà
Tươi sáng huy hoàng rồi sẽ đến
Mịt mù u tối cũng dần qua
Bền lòng có lúc đền ơn nước
Vững chí bao phen trả nợ nhà
Thử thách gian nguy nào sá kể
Đường về quê cũ rợp cờ Hoa
 

Hồi đó anh em suy đoán chữ cờ Hoa là nhờ Mỹ can thiệp, anh em mừng quá trời ! Mà đúng thiệt! Sau này Mỹ ký kết nên anh em được qua Mỹ theo diện H.O.

Ba nhìn đồng hồ và nói:
— Áo quần sấy khô rồi, để Ba đi lấy vô.
Tôi theo Ba ra vườn. Năm nay Ba dựng thêm một cái chòi nhỏ chứa áo quần cũ. Ba không bao giờ chịu vô Shopping như tụi con gái của Ba. Ba khoái mua đồ chợ Trời mỗi cái 1 đô, rồi giặt sạch treo lủng lẳng trong chòi giống một gian hàng chợ Trời. Mỗi lần có ai đi Việt Nam, Ba đóng thùng gởi về quê cho bà con nghèo. Ba chui vào chòi, lôi ra mấy cái áo len đưa tôi:
— Con coi thử cái mô mặc được thì đem về Pháp mà mặc. Hồi ở tù ngoài Bắc lạnh quá trời! Ba bị ho hoài. Ba cứ tưởng bỏ xác ngoài nớ rồi chớ!

Tội nghiệp Ba lúc nào cũng bị ám ảnh bởi ngục tù Cộng sản! Tôi ngán ngẩm cầm mấy cái áo lỗi thời, không dám làm Ba buồn, nói “dạ, cám ơn Ba” nhưng định bụng trước khi trở về Pháp sẽ đem vô nhét lại trong garage, nơi có hơn chục thùng đồ cũ của Ba.

May mà Ba sống chung với con rể cũng là nạn nhân tù cải tạo, hoàn toàn thông cảm căn bịnh “số nhiều” của ông già vợ.
Ba ngồi bệt dưới tấm thảm, lui cui xếp đống áo quần của cả nhà. Ba hớn hở nói:

— Ngày ni Ba làm mấy chuyện lặt vặt cho xong. Mai Ba bận đi chùa. Ba phụ tá phần nghi lễ và là huynh trưởng Phật tử.

Tôi vừa phụ vừa hỏi chuyện:
— Năm ngoái Ba bị mổ bướu gan, chừ đỡ chưa Ba?
— Lành rồi. Người Mỹ tốt thiệt! Tiền thuốc men, bịnh viện họ cho hết không tốn lấy một xu. Hồi ở tù một chai thuốc đỏ cũng không có! Bịnh là chết!
Nhắc đến chữ “chết”, Ba chợt nhớ ra, nhìn thẳng vào mặt tôi và nói với giọng bình thản:
— À, Ba dặn con Út rồi, khi mô Ba mất thì thiêu và đem về làng mình. Ba muốn được gần gũi ông bà tổ tiên.
Tôi nao nao xúc động. Ba thường tỏ lòng biết ơn người Mỹ, hết lời khen ngợi các nước yêu chuộng tự do vô cùng nhân đạo, tôn trọng nhân quyền, tín ngưỡng nhưng Ba vẫn muốn gởi nắm xương tàn trên đất nước Việt Nam.

Lê Khánh Thọ

(France)

-----
(bài đọc thêm)

Related image


   Cái Bóng Của Vị Thầy Tu
 
       Phạm Tín An Ni
 
   Dừng xe trước quán cà phê nằm bên triền núi, tôi kéo Lân vào ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nằm riêng rẽ dưới bóng mấy cành thông. Ngày thường, quán vắng khách. Đã hơn bốn giờ chiều mà mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Mùa hè Bắc Âu ngày dài ra, có những ngày cuối tháng sáu, gần như không thấy bóng đêm. Trời nắng, nhưng không nóng lắm. Thỉnh thoảng có vài cơn gió làm lung lay những cành thông, như muốn khuấy động cái không gian tĩnh mịch và tạo thêm chút mát mẻ, thư thái cho khách nhàn du.
 
   Đến đây đã nhiều lần, dần dà bọn tôi trở thành khách quen của ông chủ quán, người Na-Uy, vốn trước kia ở cùng xóm với tôi, nên đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi đặc biệt, thoải mái. Hơn nữa đã từng nghiên cứu về Đạo Phật, nên thấy Lân trong bộ áo thầy tu, ông chủ cũng tỏ ra ít nhiều tôn kính, có khi trao đổi đôi điều về Phật và Thiền học, mặc dù ông chưa hề biết quá khứ, nhất là cả một thời tuổi trẻ đầy sôi nổi, hào hùng và biến động của Lân.
      
   Gần mười năm nay, sau khi về hưu, hằng năm, vào khoảng giữa tháng Mười, vợ chồng tôi thường sang Cali ở sáu tháng để trốn mùa Đông Bắc Âu, mà với tuổi già càng lúc cái lạnh như càng ngấm vào da thịt và cả trong lòng mình.  Đến hè, mỗi lần trở lại Na-Uy, tôi thường ghé lại thăm Lân.

Từ lúc nhận ra tuổi già qua nhanh quá, cái quỹ thời gian không còn nhiều, và một số bè bạn đã lần lượt ra đi, chúng tôi dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Lân về hưu trước tôi một năm, và anh đã chọn một hướng đi đặc biệt cho tuổi già: tu tại gia. Anh xuống tóc, ăn chay trường và mỗi ngày sống với kinh kệ như một vị thầy tu, mặc dù không đến chùa. Anh cho rằng cái khung cảnh và sinh hoạt ở một số chùa chiền bây giờ không thích hợp với anh.

Hầu hết bạn bè và những người quen biết đều tôn trọng cái quyết định đó, cũng như rất mến mộ phong cách, đạo đức của anh. Thực ra, trước khi chọn con đường tu hành, anh cũng đã có đầy đủ tố chất của một vị chân tu rồi. Hiền lành, đạo hạnh, luôn chia sẻ tấm lòng với tha nhân, nhất là những người không may, gặp điều khốn khó, và với ai anh cũng luôn nở một nụ cười hiền hòa nhân ái.

Lân dùng nguyên ngôi nhà ở sửa sang lại làm tịnh thất, nằm trong khu ngoại ô, bên bìa rừng yên tĩnh. Anh sống ẩn dật, chỉ tiếp vài ba người bạn chí thân. Tôi thường đến đây với Lân, có khi ở lại cả tuần, theo anh ngồi tĩnh tâm hay tập thiền, nhưng thỉnh thoảng Lân cũng chìu tôi, theo tôi ra ngồi ở cái quán cà phê  bên vách núi yên tĩnh này. Tôi nghĩ đây là nơi lý tưởng để Lân còn nhìn thấy một chút “thế gian” và chúng tôi có thể ngồi hằng giờ tâm sự chuyện đời xưa,  nhắc nhớ khoảng thời gian khá dài mà chúng tôi có cùng chung quá khứ.
   ***
        Tháng sáu năm 1976, sau khi bị chuyển tù ra Bắc, đến Trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi gặp lại người bạn cũ, có thời ở cùng đơn vị. Anh ở khác lán với tôi, nhưng cùng tổ và nằm bên cạnh Lân. Qua anh bạn này, tôi quen biết Lân từ đó, để rồi sau này trở thành thân thiết. Điều đặc biệt là dù qua bao lần “biên chế”, bị chuyển đi nhiều trại, Lân và tôi đều được may mắn, đi chung với nhau cho đến ngày Lân ra tù, tháng 9 năm 1981.
      
   Trước ngày miền Nam thất thủ, Lân là thiếu tá, làm việc ở Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (thuộc Bộ Tư lệnh Không Quân). Một công việc bất đắc dĩ, ngoài sở thích của Lân. Anh vốn là phi công trực thăng được chuyển về đây sau khi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa và được Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp vào loại 2, không thể phi hành hay chiến đấu được. Anh bị trọng thương trong một chuyến bay cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi trong trận chiến An Lộc.
       
   Lớn hơn tôi một tuổi.  Lân tình nguyện vào Không Quân và được sang Mỹ học ngành hoa tiêu trực thăng. Về nước được bổ sung cho Phi Đoàn Long Mã 219 ở Đà Nẵng, từ thời còn xử dụng trực thăng loại H-34, về sau này được thay thế bằng UH-1. Đây là một phi đoàn đặc biệt. Trên các máy bay sơn toàn màu đen, không vẽ quốc kỳ và  bất cứ danh hiệu hay mã số nào, ngoài hình những lá bài “ách xì” cơ, rô, chuồn, bích. Phi Đoàn có nhiệm vụ thả và bốc các toán lôi hổ, biệt kích, hoạt động trong vùng đất địch. Lân nổi tiếng là một phi công tài giỏi, thông minh và can đảm.
        
   Sau đó, được thuyên chuyển về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Năm 1970, Lân cùng phi đoàn đã đóng góp nhiều chiến công trong các cuộc hành quân sang lãnh thổ Cam- Bốt. Năm 1972, tham dự trận chiến An Lộc, đổ quân, tản thương cho Liên Đoàn 81 BCND và một số đơn vị thiện chiến khác, Lân mấy lần bị thương nhẹ, được đặc cách thăng cấp thiếu tá.

Khi đã có lệnh và đang chờ thuyên chuyển đến một phi đoàn khác để giữ chức vụ Phi Đoàn Phó, thì anh tình nguyện tham gia phi vụ cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi. Nhờ tài năng, lòng dũng cảm và nhất là tình đồng đội “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, anh đã bất chấp mọi hiểm nguy, cứu được 3 trong 4 người của một phi hành đoàn, khi phi cơ phải đáp khẩn cấp vì bị trúng đạn phát hỏa, người xạ thủ đã bị tử thương.

Được bốn gunships yểm trợ, Lân đã lừa địch và bất ngờ đáp xuống trong màn lưới đạn, bốc ba người bạn đang bị Cộng quân truy bắt. Nhưng khi vừa bốc phi cơ lên, Lân bị trúng hai viên đạn, làm gãy xương cánh tay và ống chân trái. Sau này, trong một dịp tình cờ, tôi gặp anh co-pilot trong phi vụ này, kể lại chuyến bay rescue vô cùng hiểm nguy với tất cả lòng thán phục Lân.  Anh bảo, nếu không có Lân hôm ấy, chắc chắn việc cấp cứu đã không thành và ba người bạn cùng phi đoàn đã bị địch quân giết hay bắt sống.
       
   Khi ở trại Nghĩa Lộ, tôi được sắp xếp cùng tổ với Lân. Chúng tôi thuộc đội phát rừng (vào mùa Đông) và tăng gia (vào mùa Hè, vì mùa Đông, ở vùng này rất lạnh, không trồng rau được). Tù ăn uống thiếu thốn và lao động cực khổ, nhưng Lân rất khỏe mạnh.

Có lẽ nhờ vào khả năng mưu sinh. Phải nói đây là một sở trường đặc biệt của Lân mà bạn tù ai cũng nể phục. Anh có thể bắt tôm, cá bằng tay không,  khi đứng giữa một dòng suối hay con sông. Nhìn dấu chân các loài vật anh biết ngay đó là con vật gì. Chỉ cần một nhánh cây anh có thể “sáng chế” thành một cái bẫy để bắt các loại chim, chồn, và cả thỏ rừng.

Nhờ vậy mà anh nuôi sống cả một tổ tù, đặc biệt cứu vài người bị đau bệnh, kiệt sức. Anh còn biết cả thuốc Nam, các loại lá, vỏ cây trị bệnh. Một lần đi rừng chặt nứa, tôi bị một con ong đất chích vào tay, sưng vù lên và tím cả một vùng da. Lân cho biết nọc loài ong này rất độc, có thể làm chết người. Anh dùng dây rừng cột chặt cánh tay tôi lại, đi tìm một loại lá và vỏ cây gì đó đắp lên.

Chỉ sau một giờ đồng hồ vết sưng biến mất. Một buổi trưa nhân ngày lễ, được nghỉ lao động, anh đã câu được gần ba mươi con ếch ngay trong trại, dưới các rãnh mương thoát nước. Chính tay trưởng trại đã đi theo xem và phục tài của Lân. Tất cả ếch câu được đều giao cho nhà bếp “hậu cần” để có thêm chất thịt cho anh em.  Lân cho biết là chỉ cần nghe tiếng ếch kêu đêm hôm trước là anh biết có khoảng bao nhiêu con và đang trốn ở đâu. Cần câu chỉ là một thanh tre và một sợi chỉ từ cái bao cát được Lân xe lại, và mồi câu chỉ bằng một miếng bông gòn nhỏ.

Tối hôm ấy, tôi khuyên Lân nên chấm dứt chuyện câu ếch và cần phải giấu kín cái tài mưu sinh, vì có thể bị bọn cai tù nghi ngờ, “ra tay” trước đề phòng khả năng anh trốn trại. Tôi cũng ngạc nhiên, khi Lân là một phi công “hào hoa”, nhưng khả năng mưu sinh thoát hiểm rất tuyệt vời. Lân cho biết, khi còn nhỏ, nhờ cả thời tuổi thơ sống bên quê ngoại, một vùng quê ở Tây Ninh, anh đã theo đám bạn bè và cả những người nông dân lớn tuổi, học được rất nhiều điều như thế.
        
   Điều làm tôi nể phục hơn, ngoài mưu trí, lanh lẹ, Lân còn là một con người gan dạ, liều lĩnh và chí tình với bạn bè. Một lần trải qua một trận kiết lỵ kéo dài, thuốc men không có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức đứng không vững.

Lơi dụng lúc đi lấy “phân xanh” (loại lá cây để ủ thành phân bón), không có vệ binh canh giữ, Lân đã lén vào trại heo của Hợp Tác Xã (cách trại khoảng vài trăm mét, mà trước đó đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho họ) bắt một chú heo con (heo sữa) mang về giấu ngoài khu vực tăng gia (nằm sát bên hông trại), để hôm sau vùi vào hầm lửa ( do tù đào và dùng các gốc cây đốt lửa sưởi ấm) cho tôi ăn dần.


Related image

Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại được sức. Một lần khác, khi được giao cho công việc lên phơi lúa trên sân trại, nằm ngay trước ban chỉ huy trại, Lân thấy có một buồng chuối thật dài sắp chín được đám bộ đội chăm sóc cẩn thận, bao lại bằng mấy tấm bao cát và chống lên bằng hai thanh gỗ. Vài hôm sau, trong một buổi sáng sớm mùa Đông, khi sương mù còn dày đặc (đứng cách vài thước không nhìn thấy nhau), Lân đã lẻn lên sân trại cắt trộm cả buồng chuối mang ra chôn giấu ngoài khu lao động.

Hai hôm sau chuối chín, chờ lúc không có mặt tay quản giáo, Lân đào buồng chuối lên để cả tổ cùng ăn. Vì sợ mùi chuối chín dễ bị phát hiện, nên Lân đề nghị phải ăn cho hết. Một thời gian quá lâu thiếu chất đường, nên cả tổ tám người thanh toán buồng chuối khoảng một trăm quả trong vòng 20 phút đồng hồ mà vẫn chưa thấy ngọt. Nhưng vì ăn nhiều quá, nên khi vừa đứng dậy, cả bọn bị ói thốc tháo ra toàn là chuối.
        
   Biết tài bắt cá của anh, nên mỗi lần trại tù hay hợp tác xã bên cạnh tổ chức “tảo” các hồ cá để thả cá con, Lân đều được chọn đi bắt cá. Hầu hết các hồ chỉ nuôi loại cá trắm cỏ, nhưng có nhiều loại cá khác, như cá lóc, cá trê sống trong đó, sẽ ăn hết đám cá trắm cỏ con.

Nên trước khi thả cá, phải “tảo”hồ, băng cách bơm cạn và bắt tất cả các loại cá khác nằm dưới bùn. Lân sở trường về việc này. Nhưng thay vì  phải giao tất cả cả bắt được cho trại, anh tìm vài cái hang dưới bờ hồ, tạo thành những cái hộc để nhốt một số cá lóc vào đó.

Những cái hồ cá này, cũng là nơi cho tù rửa ráy hay tắm sau giờ lao động. Và cứ mỗi lần tắm, Lân lại bắt một con cá nhốt sẵn trong hộc, mang về cho cả tổ cùng ăn. Vì là đội tăng gia, được giữ mấy cái bình tưới bằng nhôm, nên dễ dàng giấu cá trong đó mà không bị “phát hiện”.

        
Related image

   Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên. Một khoảng thời gian ở Trại Hang Dơi, bọn CS luôn tìm mọi cách vắt kiệt sức của chúng tôi. Tất cả tù đều phải lên rừng chặt nứa (loại tre nhỏ) mang về bán cho nhà máy giấy Việt Trì, theo hợp đồng của trại. Chỉ tiêu mỗi ngày là ba mươi cây. Nếu không đủ, sẽ không được nhận khẩu phần ăn.

Chỉ sau một tháng là nứa ở các vùng núi chung quanh trại tù hết sạch. Chúng tôi phải chia nhau một toán ba người đi rất xa lên các dãy núi cao tìm nứa.  Lân và tôi luôn đi chung một toán. Trời mùa Đông, lạnh buốt xương, và suốt cả ngày mưa phùn rả rích. Các lối mòn, ngõ ngách lên núi biến thành bùn nhão, trơn như mỡ.

Bọn tôi phải đóng những cái cọc ngắn dọc trên các con đường, mỗi lần vác nứa xuống, dùng đầu ngón chân tì vào các cọc để không bị trượt ngã xuống vực. Nguy hiểm hơn là khi bị té ngã, bó nứa chùi xuống đâm vào người đi trước, có thể mất mạng. Một buổi trưa, len lỏi trong rừng già, rất khó khăn để chui qua những cây mây già, nằm chằng chịt như những con trăn dài chặn các lối đi, những cây cổ thụ cao to che hết ánh sáng mặt trời.

Khi bọn tôi đang lo âu có thể bị lạc đường, chia nhau đi chặt vào các thân cây làm dấu, thì bất ngờ một một cây cổ thụ bỗng rung rinh, lá cây xào xạc,  bóng một con vật to lớn nhảy xuống. Cả ba thằng khựng lại, rồi như theo bản năng, nhanh chóng tìm lại ngồi sát vào nhau, mặt thằng nào cũng tái xanh. Bỗng Lân quát lớn: “Đừng sợ, đứng dậy, đưa dao lên!” Tôi làm theo Lân như cái máy. Khi hoàn hồn, nhận ra ngay trước mặt mình không xa, một con dã nhân (vượn người?), cao to bằng ba con người, lông lá đầy mình, mặt mày dữ tợn, đang rú gào đe dọa chúng tôi.

Lân rất bình tĩnh, bảo bọn tôi cùng hét thật lớn và bước tới với con dao đưa lên chém vào không khí. Không ngờ con dã nhân lùi lại, rú thêm mấy tiếng rồi nhảy phóc lên cây, phóng đi nơi khác. Hôm ấy bọn tôi về tay không và biết là sẽ bị phạt mất phần ăn, nên Lân đã đi tìm mấy mụt măng rừng và luộc lên cho bọn tôi ăn đỡ đói. Tôi và anh bạn tù kia phục Lân vô cùng.

Nếu hôm ấy mà không có Lân, chẳng hiểu bọn tôi sẽ phản ứng ra sao. Cũng đã từng bao lần vào sinh ra tử, nhưng đứng trước một tình huống quá bất ngờ này, thực tình chúng tôi mất hết bình tĩnh, chẳng biết cách nào đối phó. Đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con vật lạ lùng, ghê sợ, mà trước đây chỉ biết mơ hồ qua sách vở và lời kể của ông bà.
       
   Năm 1979, trước khi chuyển trại để rời khỏi Hoàng Liên Sơn, vì Trung Cộng đang tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc, đội tù chúng tôi được chọn ra hai tổ đi lao động “thông tầm”, gặt lúa cho một HTX nông nghiệp, ở cách xa trại khoảng mười cây số. Lân được chọn làm toán trưởng. Chúng tôi khoảng 20 người, đi bộ, có hai tên vệ binh đi theo.

Đến nơi vào buổi chiều, trời sắp tối, bọn tôi được trú ngụ trong một cái đình làng bỏ hoang, một phần mái và một bức tường đã rệu rã. HTX dùng cái sân đình để chứa và phơi lúa. Không biết có phải để “khuyến khích tinh thần” hay tạo thêm sức, HTX “bồi dưỡng” cho bọn tôi một bữa xôi nếp với thịt trâu khá no nê. Có cả một xị rượu mía. Đây có lẽ là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời tù bọn tôi.
        
   Sáng hôm sau, tay Chủ nhiệm HTX hướng dẫn chúng tôi ra khu ruộng, nằm cách ngôi đình làng khoảng 100 mét. Khi đến nơi bọn tôi mới ngỡ ngàng. Đây là những đám ruộng sình, lúa rất tốt, nhánh nào cũng trĩu đầy hạt, nhưng nếu bước chân xuống ruộng, người ta sẽ bị lún sâu xuống ngay, khó mà ngoi lên được, vì càng cử động, tìm cách thoát lên, lại càng bị lún xuống thêm, có thể ngập đầu.

Bọn tôi lắc đầu ngán ngẩm, khi vừa hiểu ra cái giá của bữa cơm nếp có thịt trâu, rượu mía tối hôm qua. Trong khi cả bọn nhìn nhau bất lực, Lân đưa ra sáng kiến. Dùng các tấm cửa cũ của ngôi đình bỏ hoang, cột dây kéo hai đầu, chỉ cần một người (chọn những người nhẹ ký nhất) ngồi trên tấm cửa, gặt lúa, những người còn lại, đứng trên bờ hai đầu, thay phiên kéo và giữ thăng bằng tấm cửa và an toàn cho người gặt lúa.


Một tấm cửa khác kéo theo bên cạnh, để chứa những bó lúa gặt được. Khi nào đầy lúa, người gặt ra dấu, để được kéo vào bờ. Sáng kiến của Lân được mọi người hoan nghênh, kể cả tay Chủ nhiệm. Khoảng mười tấm cửa cũ đủ loại lớn nhỏ được mang ra sử dụng, một số cuộn dây được cung cấp, kể cả một số tre được mang tới để vài anh chẻ ra đan thành những cuộn dây dài.  Không ngờ sáng kiến của Lân lại tuyệt vời. Chỉ hai hôm, tất cả lúa trên hơn mười thửa ruộng sình được gặt xong. HTX “thu hoạch” được số lượng lúa khá lớn. Tay Chủ nhiệm xin cho bọn tôi được ở lại thêm một ngày để nghỉ ngơi và “liên hoan”. 

Related image

Ăn cơm trắng với cá “trám cỏ”. Thấy có một cái trống rách, bỏ nằm lăn lóc trong góc đình, Lân bèn nghĩ ra một điều “kỳ lạ” khác.  Anh tháo da từ cái trống ra, mượn một cái chảo đun sôi gần cả một đêm, sáng hôm sau, các miếng da nở ra, mềm, dẻo và trắng mướt. Lân thái nhỏ ra, xin thêm đậu phụng (lạc), giã nát cùng với ít rau, rắc lên. Miếng da rách trong chiếc trống lăn lóc ngày hôm qua, bây giờ đã trở thành một món ăn khoái khẩu. Những bạn tù hôm ấy chắc chắn không ai có thể quên Lân và những ngày tù thật đặc biệt này.
          
   Sau khi được chuyển về Trại Nghệ Tĩnh, Lân rủ tôi và một người bạn thân nữa tổ chức một cuộc trốn trại. Tôi rất tin tưởng vào khả năng vượt thoát của Lân. Thời gian này bắt đầu được thăm nuôi, Lân đã nhờ người nhà mang theo nhiều thức ăn khô, một số tiền mặt và một cái địa bàn nhỏ dấu kín trong hũ mắm ruốc. Nhờ hối lộ hậu hỉ cho tên công an phụ trách, nên mọi thứ đều trót lọt. Nhưng chưa tới ngày thực hiện thì bất ngờ Lân có lệnh thả. Anh rất ngạc nhiên về việc này. Kế hoạch trốn trại phải hủy bỏ, vì tôi và người bạn còn lại không tin vào khả năng của mình, nếu không có Lân.
           
   Năm 1983, sau gần một năm được chuyển về Trại Z-30 C Hàm Tân, tôi được thả. Ra trại, thay vì về quê ngoài Nha Trang, tôi vào Sài gòn tìm Lân. Vì trước lúc chia tay, Lân cho biết là sau khi về nhà, anh sẽ mua ghe tổ chức vượt biên. Anh còn dặn dò, bất cứ lúc nào ra khỏi tù, tôi nhớ tìm gặp anh ngay. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng, đạo đức và chân tình của Lân.
        
   Thời gian trong tù, qua tâm sự của Lân, tôi biết rất rõ về nhà cửa, địa chỉ và tất cả những người trong gia đình anh. Ông cụ đã mất trước 75, Lân chỉ còn bà cụ đang sống với hai cô em gái trong ngôi nhà khá lớn ở bên Quốc lộ, gần Ngã Tư Hàng Xanh. Ông anh duy nhất là một Biên Tập Viên Cảnh Sát, làm việc tại Sài gòn, đã kịp rời khỏi Nhà Bè vào sáng sớm ngày 30.4.75.
        
   Lân được cả nhà, đặc biệt là bà mẹ hết lòng yêu thương. Chính vì điều này mà Lân đã không đành bỏ mẹ để ra đi khi CS chiếm Sài gòn, mặc dù khi ấy Lân có nhiều phương tiện trong tay, đã giúp khá nhiều bạn bè ra khỏi nước. Sau này Lân còn cho tôi biết, chính mẹ và các em gái của Lân đã bán nhiều tài sản và dùng vàng bạc giấu được sau các đợt “đánh tư  sản”, tìm đường dây đến một tay thứ trưởng Bộ Nội Vụ CS mua cho Lân cái giấy ra trại, để vượt biên sớm.  Lân là một trong số rất ít tù được thả sớm từ miền Bắc trong thời gian ấy.
          
   Khi tìm đến nhà, tôi gặp mẹ và cô em lớn của Lân. Bà mẹ cũng là một người tu hành.  Bên kia phòng khách, tôi nhìn thấy một tượng Phật Quan Âm lớn hơn một người thật, cao gần đến trần nhà. Tôi bảo tôi là bạn tù rất thân của Lân vừa mới được thả ra, tìm đến thăm Lân, nhưng cả mẹ con đều bảo Lân đang sống ở vùng kinh tế mới dưới Phước Tuy.

Nhìn vẻ mặt của hai người tôi biết là họ đang nghi ngờ tôi, có thể là một gã công an nào đó muốn thăm dò tin tức Lân. Khi tôi hỏi xin địa chỉ nơi ở của Lân trong vùng kinh tế mới để đi thăm, viện cớ là tôi ở ngoài Trung, sau này khó có thể gặp Lân, hai người bảo là không biết, hơn nữa người lạ cũng không được phép đến đó. Đoán là có điều gì xảy ra cho Lân, nên cả  mẹ và em Lân cố tình giấu giếm, tôi lấy tờ Giấy Ra Trại đưa cho cô em xem và kể thêm một số chi tiết về Lân cũng như những người trong gia đình.

Khi ấy hai người mới tin và cho tôi biết là Lân tổ chức vượt biên, kéo theo một số bạn bè, nhưng chẳng may ghe bị mắc cạn ở cửa sông Mỹ Tho, Lân bị bắt và đang bị nhốt trong một trại tù rất khắc nghiệt. Tôi cám ơn và xin tạm biệt, nhờ chuyển lời thăm Lân khi có thăm nuôi. Tôi cũng để lại địa chỉ và nhờ nói lại với Lân, khi ra tù nhớ liên lạc với tôi. Mẹ của Lân bảo cô em vào lấy một số tiền biếu tôi. Tôi từ chối nhưng hai mẹ con nhất mực bắt tôi phải nhận. Cô em đã nhét tiền vào túi áo của tôi.
          
   Sau hơn tám năm, trở về nhà, chưa kịp làm quen với mấy đứa con, nhất là con gái út còn nằm trong bụng mẹ ngày tôi vào tù, và cũng chưa kịp hỏi được tin tức về nơi chôn cất cha tôi, ông đã chết trong môt trại tù khác trong Nam từ tháng 6/1976, thì bốn hôm sau, tôi được “mời” ra công an thị trấn, nhận cái giấy trả lại trại tù, với lý do “nhân dân địa phương không chấp nhận cho tôi được tạm trú”.

Khăn gói vào lại trại tù Z-30C, được cho ở tạm nhà thăm nuôi ba hôm, sau đó nhận một tấm Giấy Ra Trại khác, với nơi chỉ định tạm trú mới là sinh quán của tôi. Ở đó tôi chẳng còn ai, ngoài bà cô già, góa bụa sống trong ngôi nhà từ đường của ông bà nội tôi để lại.

Tôi lại bị chính quyền CS ở đây hành hạ, làm nhục đủ điều. Không còn con đường nào khác, ngoài vượt biên. Nhờ một ông anh con ông cậu ruột, nguyên là một HSQ Hải quân, đang có sẵn ghe đánh cá, tôi liều lĩnh âm thầm khuyến khích và tổ chức vượt biên, chỉ dành cho gia đình và những người thân thiết nhất. Tôi nhờ đứa cháu vào nhà Lân. Rất may là Lân vừa mới ra khỏi tù hơn một tuần lễ, cũng nhờ bà mẹ lo lót.  Lân mua giấy tờ giả, đóng vai một “cán bộ thương nghiệp” ra Nha Trang công tác.

Tôi gởi Lân ở chung nhà với một người bạn thân khác của tôi, là căn phòng nhỏ ngay phía sau một trường tiểu học mà anh là hiệu trưởng, không ai để ý. Đúng giờ hẹn, tôi cho người đón Lân bằng xe Honda và đưa Lân trốn trong một ghềnh đá sát bên bờ biển ở một nơi an toàn.

Tôi hẹn cho ghe ghé đến, đậu xa bờ khoảng 200 mét, báo mật hiệu bằng đèn và cho thằng cháu chèo thúng chai vào đón. Nhưng Lân bảo không cần, vì thúng chai chèo chậm lắm, anh sẽ bơi ra tàu cho nhanh. Khi kéo Lân lên tàu, hai đứa ôm chầm lấy nhau, như thầm hứa hẹn một “trang sử” mới.
         
   Mặc dù có người anh định cư ở Mỹ từ 1975, nhưng Lân quyết định cùng đi Na-Uy với chúng tôi. Mấy lần tôi hỏi, có phải trong lòng Lân còn “hận” Mỹ, đã phản bội, bỏ rơi người bạn đồng minh, để đất nước và cả dân tộc mình điêu đứng lầm than?  Lân cười, bảo chỉ muốn sống gần tôi, người bạn đã cùng sống chết với anh trong suốt đoạn đời tù đày khốn khổ.
         
   Lân cùng học rồi cùng vào làm một sở với tôi cho đến ngày về hưu. Chúng tôi cùng hăng say hoạt động trong một tổ chức kháng chiến ngay từ ngày đến Trại Tị Nạn Bataan, Phi Luật Tân. Vào thời điểm ấy, tổ chức này rất nổi tiếng và được nhiều người khắp nơi tham gia, ủng hộ. Khi một cán bộ cao cấp của tổ chức từ Hoa Kỳ đến Na-Uy sinh hoạt, cả Lân và tôi xin tình nguyện được về “chiến khu quốc nội”(?), nhưng ông ta bảo không còn cần thiết nữa.

Chỉ một tháng sau đó, tổ chức này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không thật, đau lòng. Chúng tôi thất vọng và phẫn nộ khi có cảm giác mình bị lừa dối. Những năm sau, Lân sang Mỹ nhiều lần, thăm ông anh, họp bạn bè và tìm hiểu các tổ chức, hội đoàn hoạt động ở đây. Anh háo hức, thiết tha mong được đóng góp phần mình. Lân thường bảo, cuộc sống lưu vong này sẽ trở nên vô nghĩa, nếu chúng ta không làm được điều gì. Chẳng lẽ rồi bọn mình cũng chỉ là những “con chim ẩn mình chờ chết!”hay sao?
       
   Cuối cùng, dường như Lân đã không tìm được một “ánh sáng nào ở cuối đường hầm”. Anh bảo những hình thức, phô trương, những bộ quân phục và lon lá bị lạm dụng, những ông bà háo danh chủ tịch, tranh giành cộng đồng này, hội đoàn nọ, tệ nhất là mấy cái chính phủ với đám tướng tá tự phong, tự diễn, lố bịch như đám phường tuồng, làm anh muốn buồn nôn.
        
   Có những ông chưa có một ngày trong lính, nhưng lúc nào cũng tỏ ra là một nhà quân sự tài ba, huênh hoang chê bai ông tướng này ông tá khác, phê phán đủ các trận chiến ngày xưa. Cũng có những ông gốc lính, chẳng biết tài năng đến đâu, chửi bới không sót một người nào, từ các cấp chỉ huy của mình ngày trước cho đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bằng lời lẽ hạ cấp bẩn thỉu, chụp mũ người này người khác, nếu không hoan hô “cái tài thao lược” của phe ông.
        
   Bạn bè thì một số thoải mái với cuộc sống mới và đã biến thành những con người mới, quên mình đã từng là lính và bị tù đày. Một số thì tìm đến với nhau trong những hội hè, mong có nhiều cuộc họp mặt tiệc tùng, để có dịp mặc bộ quân phục, tìm lại chút “dư âm ngày cũ”. Chưa kể một số đua nhau về Việt nam, để đi trở lại trên những “đường xưa lối cũ.”

 Lân bảo, vẫn biết mỗi người có quyền chọn cho mình một cách sống riêng để bù đắp những mất mát hay xoa dịu phần nào vết thương quá khứ, tất cả đều tội nghiệp, nhưng sao anh vẫn thấy có điều gì đó làm xót xa, đau đớn trong lòng.
        
   Đôi khi Lân than thở với tôi:
         -Đã hơn 30 năm sống trong cái cộng đồng ly hương này, sao nhiều lúc mình vẫn có cái cảm giác bồng bềnh như ngày nào còn ngồi với bạn trên chiếc thuyền vượt biển ra khơi!

          Tôi lên mặt lý sự cốt an ủi Lân:
         -Bạn đừng lý tưởng quá, thời gian nó sẽ xói mòn và làm đổi thay tất cả. Trong cái xô bồ, mình phải gạn lọc để chấp nhận và trân trọng những gì tương đối, bởi rất nhiều anh em, cũng như chúng ta, đành phải “lực bất tòng tâm” trước những ước vọng đó sao!

   Tôi thầm tiếc và tội nghiệp cho Lân, một con người yêu nước, tài ba, can đảm và đức độ như vậy mà chẳng còn một nơi nào để “dụng võ”.
           
   Nhiều lúc thấy Lân trầm ngâm, ngồi im lặng như một thiền sư, tôi tự hỏi, từ ngày chọn con đường tu hành, ngày đêm với kinh kệ, không biết trong lòng Lân có còn nỗi khắc khoải nào không? Tôi ngại không dám hỏi Lân. Mới đây, trong lúc ngồi bên nhau Lân nói với tôi:

         -Bây giờ tôi chỉ còn mong ước hai điều, trước khi chết được thấy đất nước mình đổi thay, không còn Cộng sản, và khi nhắm mắt được có bạn ở bên cạnh để vuốt mắt và niệm cho tôi một bài kinh A Di Đà!

Related image

   ***
   Con chim gỗ trên chiếc đồng hồ treo trong quán cà phê vừa hót lên bảy tiếng. Như vậy là bọn tôi ngồi đây đã ba giờ đồng hồ. Trời không tối nên cứ tưởng còn sớm lắm. Ánh mặt trời vẫn chói chang qua những tàng cây. Tôi đứng dậy dành đi trả tiền.

Lân bước ra trước, đứng chờ ở vệ đường, nhắm mắt ngước mặt lên trời. Không biết anh đang cầu nguyện điều gì hay muốn xóa đi, quên hết những gì mà chúng tôi vừa tâm sự, để trở về với cái tâm yên tĩnh của một thầy tu. Anh đứng yên lặng nhưng cái bóng của anh lung linh, sống động trải dài theo bờ con dốc đá. Nhìn cái bóng, tôi mơ hồ như bất ngờ được gặp lại người phi công trẻ, hào hoa, oai hùng, mà mình đã từng quen biết từ một thời nào xa xưa như trong tiền kiếp.
        
   Bỗng dưng, tôi nhớ tới những đồng đội bạn bè đã hy sinh, nhớ tới những chàng phi công hào hùng đã từng sống chết với đơn vị tôi trong Mùa Hè 1972 và suốt một thời binh lửa. Khi bước đến bên Lân, tôi vẫn thấy anh đứng lặng yên, bất động, hướng mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Trên không gian bao la chỉ có vài áng mây đang chầm chậm bay về phía cuối chân trời.
 
   Phạm Tín An Ni

  Võ Phiến:

Nghề văn do Trời cấp License


Võ Phiến

Nghề văn do Trời cấp lai xăng. Kẻ có số làm văn thơ hẳn đã cầm sẵn chứng chỉ hành nghề khi từ bụng mẹ chui ra. Kẻ ấy lớn lên đến trường học nghề sáng tác thì tiếp nhận thêm được vô số điều hay ho, thì tài năng càng tha hồ rực rỡ. Nhưng tấm ‘lai xăng” thì phải hờm sẵn từ trước, từ lâu. Nhà văn Võ Phiến đã khẳng định như vậy trong bài Người Viết Với Cuộc Sống khi đề cập đến vấn đề kinh nghiệm hay kiến thức, cảm hứng hay suy tưởng, bên nào quan trọng hơn? nhân vật hay cốt truyện hay tư tưởng, cái nào trước cái nào sau? vai trò của kỹ thuật dựng truyện.

Nhà văn họ Võ viết, học y khoa, nha khoa, công phu là thế, học xong được cấp bằng hành nghề ngay. Xây nhà, cắt tóc, lái xe, địa ốc, kế toán…nghề khó nghề dễ học xong được chứng nhận có đủ khả năng hành nghề hợp pháp. Trong chúng ta kẻ viết truyện ngắn, người viết truyện dài, kẻ làm thơ, người làm phóng sự…ai có trong tay giấy chứng nhận khả năng sáng tác, mặc dù không thiếu kẻ được đào tạo nghiêm chỉnh tại trường? Vì lẽ ấy người ta không có lệ cấp giấy phép cho người làm văn thơ chăng?

Theo ông, đối với người viết lách một thái độ về cuộc sống là quan trọng hơn cả. Có thiết tha, có say mê, có nồng nàn với cuộc sống, bấy giờ hãy nghĩ tới chuyện viết lách. Từ thuở khai sinh mở mắt ra đã “phải lòng” ngay cuộc sống, bất cứ giờ phút nào cũng bị cuộc sống thu hút. Nhưng thiết tha với cuộc sống là thế nào? Là ham sống, là yêu đời, là hăng hái hưởng lạc hết mình, cắn soàm soạp vào trái ngọt trần gian; hay ưu thời mẫn thế, cúc cung tận tụy lo cho đời, dốc lòng cải thiện xã hội?

Không. Phải là như Tolstoi bị khích động bởi mọị máy động, dạng vẻ của sự sống. Các giác quan của nhà văn Nga luôn luôn tỉnh thức, tở mở đón nhận, ghi khắc cảm nhận một chút ngập ngừng của bàn tay, một vấp váp của hơi thở, của tiếng ngáy, một lọn tóc bung ra, một tiếng lá khô cựa mình, hay những run rẩy đợi chờ của lúc tỏ tình… Tolstoi lấy sự cảm nhận cuộc sống xung quanh làm cái sinh thú cho mình; như một tình nhân say mê đắm đuối cuộc sống, Nhà văn gốc Bình Đinh nói rõ như vậy trong cuốn Võ Phiến Cảm Nhận của nhà xuất bản Văn Mới.

Bài viết trên gửi cho nhà văn Trần Doãn Nho cũng đã nhắc tới câu thơ Vang Vang Trời Vào Xuân của Thanh Tâm Tuyền. Võ Phiến cho rằng nhà thơ không nghe bằng tai mà nghe bằng cả cái nồng nàn đối với cuộc sống. Còn Phan Nhật Nam trong bài ký Quê Hương và Người Huế thì thấy bằng tâm hồn đàn chim đông đảo vừa bồ nông vừa hạc vừa hải âu bay “nằng nặng, buồn buồn”, bay “đầy cả trời” như thở dài như hấp hối buồn đến rợn người ở phá Tam Giang rộng mênh mông, không bờ bãi, hoang vu lặng gió.

Cuối bài Người Viết với Cuộc Sống, Võ Phiến xác nhận, dẫu nghề văn do số mệnh có tinh, thân cũng khó vinh được. Đa số túng bấn. Ai dám bảo số này là may. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, dưới con mắt nhà Trời mỗi người mỗi việc, ai cũng ngang nhau thôi. Ngoài ra, trong bài Văn Phong, Nhân Cách, ông nói rõ, người nghệ sĩ xuất hiện với đời là xuất hiện như một tâm hồn, chứ không phải như một tập hợp kỹ thuật cao siêu. Người đời đến với một nghệ sĩ là tìm đến một tâm hồn; mấy ai buồn tìm hiểu các trò kỹ thuật làm gì đâu?

Vẫn theo Võ Phiến, hễ đọc thơ văn mà bắt được nét đẹp của một phong cách, đã yêu nó, thì cứ thoáng thấy nó xuất hiện ở đâu là thích đấy, bất luận người nghệ sĩ đang nói gì, đang tả cái gì, đang kể lể con cà con kê về cái gì… Phong cách nó phản ảnh một quan niệm sống, một thái độ ở đời, nó phản ảnh một khung cảnh xã hội, một thời đại, nó thừa kế các đặc điểm của một dòng dõi, một đường hướng giáo dục, một bầu không khí văn hóa v.v… Nó là cái dung mạo của một tâm hồn.

Nhưng làm sao “bắt” được phong cách của một tác giả? Nó phảng phất ở đâu? Nó nương mình vào chỗ nào? Vào câu nào chữ nào? Võ Phiến giải thích, biện luận thuyết giảng thì rối rắm, nhưng phong cách là một sự thực. Hãy lấy lương tri ra trực nhận. Ông đưa thí dụ, bà mẹ Tôn Quyền nhìn qua anh chàng Lưu Bị một cái là đủ biết ngay con người đàng hoàng xứng cho cô con gái cưng gửi thân trọn đời. Còn văn cũng vậy; đọc thoáng một cái là “chịu” liền. Người có cốt cách của người. Văn cũng có cốt cách của văn phong.

Để cho cụ thể tác giả bài Văn Phong, Nhân Cách đã đề cập tới cái mùi của thức ăn và cái mùi của văn thơ. Ông nói chuyện này chẳng có gì mới mẻ. Cao Bá Quát, người xưa đã từng mắng cái mũi vô duyên khi ngửi phải câu thơ Thi xã (chán thay cái mũi vô duyên, câu thơ Thi xã con thuyền Nghệ An). Theo Võ Phiến, ăn phở thực chất là ăn bánh phở, nước dùng, là ăn những sách, những nạm. Mùi thơm chỉ để ngửi. Nó không phải là cái ngon của phở mà chỉ là cái báo hiệu của ngon. Nhưng phở mà không thơm, không mùi thì thiệt là khổ não trần gian.

Về thưởng thức văn thơ, ông viết, đọc sách thì đọc chuyện, đọc ý, còn phong thái là cái vô hình phảng phất, chỉ để… ngửi chơi. Vậy mà chính cái đó mới làm cho Nguyễn Tuân thành Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính thành Nguyễn Bính, Phan Khôi thành Phan Khôi, cũng như xưa kia cái văn phong đó làm cho Lý Bạch thành Lý Bạch, Tô Đông Pha thành Tô Đông Pha… Cái đó chứ không phải là những cái tả cảnh hay ho, là những tư tưởng cao siêu nào. Bài viết này in trong tập Viết của nhà xuất bản Văn Nghệ.

Nhận xét về Võ Phiến, học giả Nguyễn Hiến Lê cho biết, nhà văn này, có óc tò mò, đọc nhiều và đi nhiều, rất sở trường về thể văn tuỳ bút. Qua tập Đất Nước Quê Hương của nhà văn họ Võ, chúng ta thấy mấy trang ông tả cách nấu rót và uống chè Huế làm ta liên tưởng đến Những chiếc ấm đất của Nguyễn Tuân: nghệ thuật không kém mà lại dí dỏm hơn, nhẹ nhàng hơn, có hương vị của quê hương hơn. Trong bài tựa cho tập này, học giả họ Nguyễn còn cho hay, vì ký một kiến nghị đòi bãi bỏ kiểm duyệt mà nhà văn phải di chuyển nhiều; nhờ vậy ông đã viết nên tập tùy bút. Võ Phiến là bút hiệu chữ nói lái tên người bạn đời Viễn Phố.

Bài tựa của học giả còn có đoạn viết, một cơn mưa, một giọng hát, một hớp trà, một trang sách, một tà áo phất phơ còn dưới gió, một tiếng ve rỉ rả trong rừng … bất kỳ một cảnh vật nào, một sự việc nào cũng có thể là một đề tài cho Võ Phiến; lịch trình Nam tiến và Tây tiến của chiếc áo dài phụ nữ cũng giúp ông có ý mỉa mai nhẹ nhàng và thấm thía về sự thành công của cuộc thống nhất đất nước của chiếc áo dài. Nó êm thắm, đẹp đẽ hơn những đường lối thống nhất bạo tàn biết bao ! Võ Phiến sinh năm 1925 ở Bình Định, tuy là công chức cả khi ở trong nước và ngay ở hải ngoại ông như là một nhà văn chuyên nghiệp, sáng tác đều đều, đã có hơn 40 đầu sách gồm đủ thể loại.

Theo trang mạng Gio-o.com qua tác giả Chu Ngạn Thư, trong tháng 6-2012, hai Nhà xuất bản Nhã Nam và Thời Đại đã giúp tập tùy bút Đất Nước Quê Hương có visa vượt tường lửa, tường tre để được in lại tại VN, nhưng với tên sách mới: Quê Hương Tôi. Tác giả sách không ghi là Võ Phiến mà là Tràng Thiên. Tên thật của hai bút hiệu này là Đoàn Thế Nhơn. Cuốn Quê Hương Tôi in ở Việt Nam có mấy điểm khác: không có bài tựa của Nguyễn Hiến Lê; bài Thơ lục bát Chàm bị mất phần đầu bài có dính đến thơ Chế Lan Viên.

Giọng văn như kể chuyện, một lối văn nói, khiến người đọc thấy gần gũi, chan hòa. Tập sách đưa lại nhiều hiểu biết về môn đất nước học, văn hóa học, và cả những kiến thức về du lịch, nhưng trên hết là một tình yêu, một tấm lòng. Càng đọc càng thích thú, khoái cảm, càng thấy mình hiểu thêm nhiều điều trong cuộc sống quanh mình, ở trên đất nước mình, nhất là về phía Nam, càng kích thích mình chú ý hơn đến những cái thường ngày để mà tìm hiểu. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên ở trong nước đã có một vài nhận định như vậy về tập tùy bút trong bài Có Một Tấm Lòng Như Thế.

Võ Phiến là nhà văn có nhiều nhà vì ông có khả năng viết nhiều thể loại: nhà tùy bút, nhà tạp luận, nhà lý luận văn học, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, nhà viết truyện ngắn, truyện dài… và nhà tiên đoán thời cuộc nữa. Năm 68 , sau 23 năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói ngưng chiến ai nấy mừng rơn; riêng nhà văn đã đưa ra lời cảnh báo là Cọng sản sẽ tiến đến Cà Mau qua bài tạp luận Bắt Trẻ Đồng Xanh (1).

Ông đã bày tỏ những ý nghĩ buồn thảm, đen tối của mình khi nhắc đến các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.

Nhà văn cho biết họ Hồ chấp nhận ngưng chiến là vì keo này chưa được thì bày keo khác. Ông ta lo liệu một cuộc chiến tranh quân sự mới để rước cho kỳ đươc chế độ cọng sản về; dù phải chết thêm hai ba thế hệ liên tiếp. Hồi tháng 4-68, khắp nơi Quảng Trị, Pleiku, Kontum đến Mỹ Tho, Cà Mau, phe cộng đã có một kế hoạch bắt trẻ qui mô để chuyển chúng ra Bắc bằng phi cơ từ Cam Bốt hoặc bị dẫn đi trên đường mòn Hồ Chí Minh. Cái Mặt Trận Gỉai Phóng Miền Nam được thành lập năm 1958 trước khi có người lính Mỹ đầu tiên chết trên lãnh thổ Miền Nam ngày 22-12-61.
Sau 1975 tòan bộ sách của Võ Phiến bị cấm, bị đốt hủy trong chiến dịch tẩy xóa tàn tích Mỹ Ngụy. Ông bị coi như là một trong những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng.

Chính ông, trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan xác nhận, Võ Phiến khước từ cộng sản ngay từ đầu, có thái độ chính trị dứt khoát . Đó là nhờ trước 1954 ông đã có kinh nghiệm với cộng sản, từng gia nhập bộ đội, dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ Việt Minh, vào đội Tuyên truyền Xung Phong và từng tham gia vào tổ chức chống cộng ở Bình Định năm 1951. Bị bắt, ở tù, chỉ được thả vì theo hiệp định Geneve, trốn ra Huế ông làm công chức cho chính phủ miền Nam.

Từ 1954- 1975, ông đóng góp vào sự phát triển văn học miền Nam. Võ Phiến và học giả Nguyễn Hiến Lê là hai cây bút chủ yếu của Bách Khoa; tạp chí qui tụ nhiều cây viết thuộc nhiều thế hệ đã phản ảnh đời sống Việt Nam Cọng Hòa trên nhiều mặt. Ra hải ngoại vì chỗ nặng tình với một thời văn học kém may mắn bị bỉ báng hồ đồ và cộng sản VN còn tìm cách hủy diệt nên ông đã viết cuốnVăn Học Miền Nam Tổng Quan để có một tổng kết, một kiểm điểm sơ luợc cho những ai về sau còn lưu tâm có chút căn cứ sưu khảo. Sáu năm sau cuốn sách đã được cố họa sĩ Võ Đình Mai dịch ra tiếng Anh với tựa đề Literature in South Vietnam 1954-1975.

Nhà văn Phạm Phú Minh quen thân với gia đình nhà văn Võ Phiến cho biết, không cần tinh ý lắm người nói chuyện với ông hiện nay cũng nhận thấy ông quên nhiều. Chỉ người nào hay gặp ông mới nhớ. Ông thú nhận, rất ngại tiếp xúc với người khác vì có khi không nhận ra người đối thoại, sợ họ giận, sợ họ bảo ông là người kênh kiệu một cách oan uổng. Sau bài Cái Sống Hững Hờ viết năm 2009, không thấy ông viết thêm. Trong tác phẩm chắc là sau cùng này, tác giả viết:

“Tạo Hóa có lòng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người càng cao, lòng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại một sự hững hờ: ‘Chết? ai mà khỏi? Việc gì phải sợ?’ (…) “Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính mình sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Đại khái thế thôi.”













Giang Sơn Biết Còn Hay Mất?

J.B Nguyễn Hữu Vinh
(Dựa theo Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi)

Cùng hô: Chống tham nhũng – chỉ để an dân

Từng nghe:

Việc tham nhũng cốt để vinh thân
Sau tiền bạc, mưu cầu điền địa
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Ruộng nương, bờ cõi đã chia
Phong tục cấy cày cũng khác

Từ Lạng Sơn, Thái Bình bao đời chuyên trồng lúa nước
Đến Khánh Hòa, Tây Nguyên vẫn cứ Cà phê
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Nhưng cơm gạo, thời nào cũng có

Cho nên:

Cải cách, bạo tàn nên thất bại
Hợp tác, thích lớn phải tiêu vong
Gió Đại Phong tưởng cứ thế mà lên
Bắc Hưng Hải đâu ngờ nay bỏ đó
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi

Vừa rồi:

Khi chính trường lắm sự lùng nhùng
Để trong nước, lòng dân tán loạn
Quân Bành trướng đã thừa cơ gây họa
Bọn tham tàn thì bán nước cầu vinh
Đốt nhà Vươn trên ngọn lửa hung tàn
Dìm Văn Giang xuống dưới hầm tai vạ


Nặng thuế, phí… dân không còn túi.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Tận thu, tăng phí… trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế, phí… dân không còn túi.
Đẩy ngư dân đua nhau bám biển,
Ngán thay súng đạn quân thù
Dân rủ nhau vào núi, đãi cát tìm vàng
Khốn nỗi rừng cho thuê hết cả.

Khoái sản vật, ăn toàn đặc sản, hàng quán khắp nơi
Nhiễu nhân dân tê giác, ngà voi, dân nuôi cả hổ
Dân thi nhau vào đồn tự tử
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khôn cùng
Thằng há miệng, đưa nhe răng
Máu mỡ bấy no nê chưa chán
Nay xây nhà, mai xây điện
Đất đai nào phục vụ cho vừa

Nặng nề cuộc sống dân đen
Tan tác cả nghề canh cửi
Độc ác thay, ổ cứng 500 Gb không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Ôzôn không rửa sạch mùi
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha.

Ta đây:

Từ miệt vườn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Quân thù lớn, nên đội trời chung
Mất biển đảo, lặng im mà sống
Đau lòng, nhức óc, chốc đà mấy chục năm trời
Nếm mật, nằm gai, há phải để hôm nay nghèo khó?
Tham ăn thì… nghẹn, cấm bọn dân suy xét linh tinh
Cho đến hôm nay, loạn quan tham dân nhìn đã kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị, |
chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa lúc dân loạn khắp nơi,
chính lúc “bạn vàng” đang mạnh

Lại ngặt vì:

Ngân sách như sao buổi sớm
Tiền vàng, như lá mùa thu
Tiền của công, vào túi hết rồi
Mà nhân dân cứ giữ chắc vàng, bạc
Thế mà lũ giặc,
vẫn đăm đăm muốn chiếm Biển Đông
Nơi cần hiền tài, con cháu ta trị vì hết cả.

Thế mà:

Trông tiền, tiền vàng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận “bạn vàng” trở mặt, dân bất an, trong nước khó khăn,
Lương công chức tăng chậm mấy lần,
ngoài hải đảo, quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Đầm ông Vươn, chục khẩu không nhà,
dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Rực đỏ màu áo dân Dương Nội,
hòa nước sông, thay rượu ngọt nào
Dân oan biểu tình, lấy yếu chống mạnh,
Nhà quan mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa đặt dưới hung tàn,
Bỏ chí nhân thay bằng cường bạo

Trận Tiên Lãng sấm vang chớp giật,
Miền Văn Giang trúc chẻ tro bay.
Mùi tiền bốc lên, quân thanh càng mạnh.
Hai chục bị bắt, tưởng nông dân nghe hơi mà mất vía
Quan quân đàn áp, nhà báo nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài đất Mê Linh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Vụ Bản đất cũ thu về.
Cần Thơ dân cởi áo quần, tiếng vang vạn dặm
Cồn Dầu cướp xác chôn vội, nhơ để ngàn năm.

Thế lực thù địch: Nhà Vươn đã phải vào tù
Quần chúng nhân dân: Mấy chục thằng đưa Lộc Hà nhốt lại.
Công an gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Hải Phòng cứu cán bộ, mà dân kia hăng lại càng hăng.
Chẳng lẽ bó tay để đợi bại vong,
Dù đã đến lúc trí cùng lực kiệt.
Cố đánh mà chúng không chịu khuất,
lại còn đòi mưu phạt tâm công.

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn,
ngờ đây vẫn không thay lòng đổi dạ
Ta vẫn còn đương mưu tính
Nếu cần cứ chuốc tội gây oan.
Quyết giữ ý kiến một người,
dù gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
mặc kệ cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Ban Phòng chống tham nhũng hội họp không ngừng
Nhưng mấy vụ Vina… đổ dầu đám cháy
Nhâm Thìn tháng tám, Bầu Kiên, Chí Dũng bị đưa nhốt trong tù
Năm ấy tháng mười,
hàng loạt quan chức Vinashin cũng cho vào nhốt lại.
Trước sai CAM chặn báo mạng đưa tin
Sau lại có công văn cấm đọc Quan làm báo

Bọn biểu tình ta điều binh thủ hiểm, chặn mấy đứa tiên phong
Sau lại cho bọn côn đồ, ném mắm tôm trộn nhớt.
Ngày một tháng mười, Hội nghị trung ương mở đầu trong bí mật
Ngày mười lăm, Tổng Bí thư nghẹn ngào xin lỗi nhân dân
Ngày mười bảy, Chủ tịch nước kêu gọi vượt qua sợ hãi, khó khăn
Ngày hai hai, Thủ tướng nhận lỗi trước dân, hứa sai đâu sửa đấy.

Thuận đà dân đưa nhau kêu cứu,
cuồn cuộn dân về tụ tập vườn hoa
Quân đem dây bốn mặt quây vườn,
lại cử cả công an canh nghiêm ngặt
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Du côn chọn kẻ vuốt nanh
Chúng vung đá: lắm đứa gãy sườn,
đám dân oan: tát khô, bắt cạn
Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
đánh hai trận tan tác dân oan.

Cơn gió to trút sạch lá khô,
Trại Lộc Hà, kêu như đê vỡ.
Đoàn Văn Vươn lên truyền hình nhận tội
Đoàn Văn Quý, cạo trọc đầu để tự xin hàng
Đầm Vươn, Văn Giang, Vụ Bản, dân đứng đầy đường
Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Vườn hoa,
Quân biểu tình không ngờ, vẫn quyết vào đối mặt
Nghe tin bắt đồng bọn, bọn yêu nước kéo lên để viếng thăm
Thương nước non, máu đã chảy thành sông,
Trại Thanh Hà, nghẹn ngào tiếng khóc

Quanh Hồ Gươm, rào sắt chất thành núi
Dày đặc, đầm đìa công an
Cứu hai biểu tình viên, công an quay gót chẳng kịp
Giam giữ người trái luật, phải thả cho về.
Hà Nội mới vu cáo biểu tình,
được bao che, vẫn nói bừa văng mạng

Dân ta nghe chỉ cười thầm thương hại,
cứ nhủ thầm Trời Phật sẽ tính sổ bọn sát nhân
Đài Truyền hình, có cả súng máy đạn đồng,
mấy chục người đến thôi mà đã hồn bay phách lạc.

Giám đốc vào phòng đóng kín cửa,
dân về rồi mà vẫn tim đập, chân run.
Họ đã tham sống, sợ chết mà phải sống hai lòng
Dân thấy thế thì thôi, về ăn thịt chó lấy sức
Chẳng cần mưu kế kỳ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay.
Xã tắc biết có vững bền, Giang sơn biết còn hay mất?
“Càn khôn bĩ rồi có thái, nhật nguyệt hối rồi có minh?”

Hai mươi năm, chống tham nhũng ầm ầm
Càng chống, tiền công sẽ không còn một cắc.
Âu cũng là trời đất tổ tông
Linh thiêng mà không thèm phù trợ

Than ôi!
Chương trình chống tham nhũng
Cứ như đánh trận giả hàng năm*
Bốn phương, thế giới đang nhìn
Đất nước ta, bày trò vui quá hội

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hô:
“Chống tham nhũng, chỉ để an dân*”

Xin tạ tội với Cụ Nguyễn Trãi.
Kỷ niệm một năm với anh em biểu tình yêu nước,
ngày 11/11/2011-2012.

J.B Nguyễn Hữu Vinh

___________________________________

  • Ghi chú: ngày hôm nay, Quốc hội lại họp bàn tưng bừng về luật Phòng chống tham nhũng. Ông Dương Trung Quốc phát biểu: “Vừa qua, việc chống tham nhũng tựa như đánh trận giả, kế hoạch tác chiến rất hoành tráng, lực lượng huy động rất hùng hậu, mệnh lệnh ra quân rất dứt khoát và lại được nhân dân cổ vũ mạnh. Vậy mà khi lâm trận thì súng nổ rất to mà không sát thương được ai vì đạn không có đầu. Quan trọng hơn là quân xanh hay quân đỏ đều là quân ta cả”…

  •                 


    Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh

    Tưởng Nhớ Cha Chính Vinh
    Phùng Quán
    (viết lại theo lời kể của
    nhà thơ Nguyễn Tuân)


    "… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng.

    Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

    Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai.

    Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

    Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
    Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết.

    Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

    Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

    Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

    Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

    - Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
    Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
    - Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

    Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…

    Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

    Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

    - Anh Tuân này
    - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

    - Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

    - Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.

    - Voltaire! -
    một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

    Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
    - Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
    Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

    Mình trả lời anh ta:
    - Tôi thích nhất là Candide.
    - Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

    Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
    - Không phải đọc mà nghe…
    Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

    Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

    Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".

    - Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
    Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
    - Anh là ai vậy?
    Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
    - Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
    Rồi anh ta tiếp:
    - Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…


     










    Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

    Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết. Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
    Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta. Giám thị hỏi:
    - Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
    Mình nói:
    - Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

    Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

    Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

    - Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

    Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

    Chinese Character PATIENCE Decal Sticker
    Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

    Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
    Giám thị hỏi:

    - Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

    Mình nói:
    - Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói:
    tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

    Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
    Phùng Quán
    ________
    Ghi Chú:
    (*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
    Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
    Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
    Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
    Tấm gương can trường.
    Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
    Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
    Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

    Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges .
    Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.

    Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”
    Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
    Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

    Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
    Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
    Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.

    Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

    Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

    Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
    Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

    Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

    Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
    Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

    Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.

    Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

    Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.

    Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
    Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:

    “Tự do thế này à!”
    Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

    Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
    Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

    Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
    “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
    Ngài đáp:

    “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”

    Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
    Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

    Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

    Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
    Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

    Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

    Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

    TGP Hà Nội - 2013
    BBT (Theo HĐGMVN)



    Hồi Ký Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên










































    42. ĐÊM GIỮA BAN NGÀY – CHƯƠNG KẾT

    Date: Wednesday, June 12, 2013, 4:52 AM

    Tạ Phong Tần BI. VC ĐƯA ra Bắc

    Sổ Tay Thường Dân
    Tưởng Năng Tiến

    2013-06-11

    Sông Mã chụp từ vị trí cổng trại Thanh Cẩm.
    Nguồn ảnh: Gia Đình Thanh Cẩm

    Khi mới vào Nam, ông Nguyễn Đăng Mạnh đã “nẩy ra ý khái quát” thế này:

    “Vào Sài Gòn ngay sau 1975, người miền Bắc quả đã bị choáng ngợp. Nếu có chê thì chê theo một định kiến cũ kỹ về mặt đạo đức. Thí dụ, đàn bà con gái mặc áo dài không có áo lót, hở ra bên hông (Ông Vũ Thuần Nho gọi là triangle sexuel) Nhiều cô mặc áo như cái maillot, có cô mặc quần soóc đi ngoài đường…vv…

    Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra ý khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ miền đất nghèo đến nơi giầu có, từ chỗ hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt lội là đói khát, đến nơi dường như sờ đâu cũng có cái ăn, cây trái, tôm cá ê hề, muốn chết đói cũng khó. Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá cao đến nơi văn hoá thấp.” (Hồi Ký Của Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh).

    Có lẽ vì độ “vênh” văn hoá giữa hai miền rõ ràng (như thế) nên hàng trăm ngàn viên chức, văn nghệ sĩ, và sĩ quan miền Nam đã được đưa ra Bắc học tập cho ... chóng tốt. Duy có điều đáng tiếc là khí hậu (cũng như điều kiện sinh sống) “nơi văn hóa cao” không hiền hoà và tử tế gì cho lắm nên không ít “học viên” đã bỏ mạng tại chỗ, ngay khi chương trình cải tạo vừa mới bắt đầu:

    “Anh em từ trong Nam ra cứ yên trí là ‘học tập một tháng’, nên quần áo mang đi theo làm gì nhiều cho nặng. Ra đây, đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh càng thêm thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ các thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo…

    Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay (1976). Đúng là ‘Giậu đổ bìm leo’, vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn…Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có quan hệ ‘hữu cơ’ với nhau. Càng đói thì càng rét-mà càng rét thì càng đói.

    Anh em đã có người ‘nằm xuống’ vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng sáng 17-11- 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay ngày 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Qúy Thuyết, Tòa án Quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi.” (Phan Lạc Phúc. Bạn Bè Gần Xa. Westminster, CA: Văn Nghệ, 2000 – Trích dẫn lại từ Bên Thắng Cuộc. Osinbook, 2012. Vol.1.)

    Đói lạnh (có lẽ) chỉ làm cho những người tù từ miền Nam chóng chết, chứ không chóng tốt. Không những thế, những kẻ sống sót, với thời gian (xem chừng) mỗi lúc một thêm khó cải tạo hơn. Xin đơn cử một trường hợp tiêu biểu:

    “…Trương Văn Sương quê ở Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng bị bắt vào khoảng những năm 1977- 1978. Và tổng số thời gian ở tù của anh cũng đã ngót 28 đến 30 năm ròng rã… Anh đã từng là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà trước đây.

    Không bao giờ anh và những người tù án nặng ở buồng 6 viết bản nhận tội. Cứ mỗi lần như vậy thì anh Sương đều là người đứng đầu đấu tranh và ban giám thị trại Nam Hà phải điều hàng chục binh sĩ và cán bộ công an xuống khoá tay, đưa anh đi cùm biệt giam ở nhà kỷ luật...

    Suy nghĩ của tôi khi viết bài này là chỉ mong Đảng CSVN, nhà nước Việt Nam và Bộ công an thôi đi hãy đừng cố chấp, hãy đừng mong mỏi gì được mấy dòng chữ ‘tôi nhận rõ tội lỗi, thật thà ăn năn hối cải’ ở nơi anh Trương Văn Sương và nhiều người tù khác nữa theo “4 tiêu chuẩn 1269” vô hồn, vô nghĩa kia nữa. Mà hãy cao hơn thế là tình người, là lòng nhân đạo, là sự bao dung, là sự khoan dung và sự đại lượng…hãy thả vô điều kiện những người tù như anh Trương Văn Sương ra khỏi trại giam vì anh đã ở tù gần 30 năm là quá đủ rồi...” (Nguyễn Khắc Toàn – Tù Nhân Trương Văn Sương & Những Người Tù Khác).

    Những lời kêu gọi “sự khoan dung và sự đại lượng” (thượng dẫn) được gửi đi vào năm 2006, và đã hoàn toàn rơi vào hư không. Ông Trương Văn Sương đã qua đời 5 năm sau, vào hôm 11 tháng 7 năm 2011, tại trại Nam Hà.  Người tù cải tạo này, tiếc thay, đã không “tiếp thu” được chút “chính nghĩa cách mạng” nào ráo trọi – sau 33 năm học tập ở một nơi xa nhà hàng ngàn cây số!

    Tuy thế,  những trại tù ở miền Bắc vẫn mở rộng cửa tiếp tục chào đón những tù nhân từ miền Nam –  như tin loan của BBC, nghe được vào hôm 22 tháng 5 năm 2013:

    “Blogger Tạ Phong Tần, người bị chính quyền Việt Nam kết án tù vì tội 'Tuyên truyền chống Nhà nước' nhưng lại được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là 'Phụ nữ dũng cảm' đã bị chuyển trại giam từ Đồng Nai ra Thanh Hóa hôm 3/5. Hiện tại bà đang bị giam giữ tại Phân trại số 4 thuộc Trại giam số 5, thị trấn Thống Nhất, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.  Bà Tạ Minh Tú, em gái bà Tạ Phong Tần, đã có chuyến ra Bắc thăm nuôi chị mình hôm 15/5. Nói với BBC từ quê nhà Bạc Liêu, bà Tú cho biết bà đã nói chuyện với bà Tần trong khoảng 30' dưới sự giám sát của bốn cán bộ trại giam.

    Theo đó, bà Tần than phiền ở nơi giam giữ mới này nước nôi rất khan hiếm. Có khi bà không có nước rửa ṃăt. ‘Không có chỗ tắm chỉ có hồ nước khoảng 10m2 cho 200 người giành nhau tắm như là ăn cướp,’ bà Tú thuật lại lời bà Tần.

    Theo lời kể của bà Tú thì bà Tần cáo buộc 'chính quyền biết rõ tình trạng bệnh tật của bà là viêm họng và đau khớp' nên chuyển bà ra ngoài Bắc với điều kiện khí hậu thất thường và mùa đông lạnh giá bất lợi cho bệnh tật của bà.

    ‘Họ cố tình làm cho gia đình không thăm nuôi được do nhà quá xa xôi với lại chi phí cao quá nếu có bệnh hoạn gì nếu gia đình không biết thì chết không ai biết luôn,’ bà Tú thuật lại lời bà Tần...‘Trước khi đi chị cũng gửi lời thăm hỏi các cha và nói là cứ yên tâm chị vẫn trước sau như một, không có gì thay đổi,’ bà Tú nói.”

    Khẩu khí của Tạ Phong Tần dễ khiến cho tôi thốt nhớ đến những chuyện (vô cùng) phiền phức đã xẩy ra cho nhân viên ở trại giam Nam Hà, vài năm về trước, vẫn theo như lời của nhà báo Nguyễn Khắc Toàn:

    “Lúc đó anh Sương đã hô khẩu hiệu chống đối rất to: ‘Đả đảo CSVN đàn áp tù chính trị, các cán bộ công an có giỏi thì hãy bắn tôi đi. Trương Văn Sương này suốt đời chiến đấu cho lý tưởng tự do…’ làm cho hàng chục cán bộ công an, quản giáo và các binh sỹ công an trẻ rất e ngại. Họ đã có lệnh sẽ bịt miệng và bằng cách dùng khăn tẩm ê te và hơi cay để trấn áp không cho anh Trương Văn Sương tiếp tục thét gào phản kháng nữa.”

    Xem như thế thì chỉ còn hy vọng vào điều kiện địa dư khắc nghiệt ở nơi văn hoá cao mới có thể khuất phục được người tù bất khuất Tạ Phong Tần. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một niềm hy vọng (mong manh) thôi vì không phải ai cũng có thể bị “khí hậu thất thường và mùa đông lạnh giá” đốn gục như mong đợi:

    "Tôi đã sống bẩy năm trên vùng thượng du của tỉnh Thanh Hoá, bên bờ con sông Mã, và đã bẩy mùa xuân chứng kiến những kỳ diệu của đất trời, núi sông và lòng mình. Đấy là một nơi hiểm trở, trại đóng ngay bên sườn núi trông xuống sông, bên kia sông là một bình nguyên nho nhỏ, rồi lại tiếp tục núi. Hai đầu sông được chắn bởi núi, bốn phiá toàn núi, gần xa đậm nhạt khác nhau".

    Chữ "trại" trong đoạn văn vừa dẫn là một trại tù, và người say mê mô tả cảnh "kỳ diệu của đất trời núi sông" là một tù nhân. Một người tù "quắt queo đói lạnh, tả tơi đứng bên sông núi" (suốt từ năm này sang năm khác) mới cảm nhận hết được lẽ chuyển đổi vi diệu của đất trời, để ghi lại được những câu văn diễm lệ:

    "Mùa thu núi bỗng mơ màng. Bầu trời trong xanh hơn và núi như phủ mờ một làn suơng khói mỏng. Trời càng se lạnh núi càng xa cách, càng rời xa vẻ thực tế tầm thường để tự biến mình thành huyền ảo. Vào mùa thu sông Mã đã thôi gầm lên khúc độc hành, vẻ đục ngầu dữ tợn của mùa hè đã trôi mất, bây giờ lặng lẽ trong xanh để hoà hợp với dáng núi đang trong một chuyển cung yểu điệu. Trời, núi, sông và người cùng vào một cơn ngất ngây buồn như tiên cảm một nỗi lạnh tê đầy bất trắc. Các ruộng bắp ven sông đã úa vàng. Công việc thu hoạch mùa màng vào những buổi chiều mùa thu mang một vẻ đẹp cổ điển với ánh nắng vàng xiên xiên, lá bắp khô xào xạc, và bếp lửa nấu nước ở bờ ruộng vuơn cột khói lên cao..." (Phạm Xuân Đài. "Nét Xuân Sơn". Hà Nội Trong Mắt Tôi. Westminster, CA:Thế Kỷ, 1994.)

    Tác giả đoạn văn thượng dẫn đã sống sót trở về, sau nhiều năm “tả tơi quắt queo sống trong đói lạnh” ở Thanh Hoá. Ông nguyên là chủ biên của Tạp Chí Thế Kỷ 21, và hiện đang chủ trương trang Diễn Đàn Thế Kỷ, có trụ sở đặt tại miền Nam – California.

    Đã đôi lần, tôi có hân hạnh tiếp chuyện với ông Phạm Xuân Đài, và ông Phan Nhật Nam – một người tù khác, sống qua hàng chục năm biệt giam ở trại tù giam Thanh Cẩm. Thái độ sống, cũng như ngòi bút, của cả hai ông bao giờ cũng đậm nét bao dung và tử tế. Những tù đã qua, xem ra, đã không gây cho họ một chấn thương tâm thần nào ráo trọi.

    Những năm tù sắp tới cũng chưa chắc sẽ gây được tổn hại nào đáng kể cho Tạ Phong Tần. Nhưng bản án khắc nghiệt, cùng cách hành sử đê tiện, vừa qua – chắc chắn – sẽ có ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến sự tồn vong (vốn đã rất mong manh) của nhà nước hiện hành. Không ai, kể cả những người lạc quan và cực đoan nhất hiện nay, có thể tin rằng chế độ bạo ngược này có thể tiếp tục cầm quyền thêm mười năm nữa.

     Tưởng Năng Tiến


    Cựu Tù Nhân Lương Tâm Trần Tử Thanh:
     CSVN Thi Hành Chính Sách Tra Tấn
    Thầm Lặng Trong Các Tù Cải Tạo.
     
    Nguyễn Quốc Khải
    28-1-2014
     
      
    Hình (NQK): Họp báo tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 16-1-2014. Ông Trần Tử Thanh ngồi ghế thứ ba từ bên trái.
     
    Vào ngày 16-1-2014 vừa qua, DB Christopher Smith cùng với BPSOS đã tổ chức một cuộc họp báo trong khuôn khổ của Chiến Dịch Vận Động Xóa Bỏ Chế Độ Tra Tấn Tù Nhân Tại Việt Nam.  Mặc dù CSVN đã phê chuẩn Công Ước Chống Tra Tấn của Liên Hiệp Quốc (United Nations Convention Against Torture) vào 2013, nhưng việc đánh đập và tra tấn những người bất đồng chánh kiến, bầy tỏ ý kiến một cách ôn hòa và tù nhân vẫn tiếp tục.  Ngoài ra CSVN còn dùng thủ đoạn dùng tù trị tù dùng tù xử tù một cách thâm độc như Cô Đỗ Thị Minh Hạnh tố cáo.
     
    Bằng chứng là chỉ cách đây hơn một tuần vào ngày 20-1-2014, nhân dịp Tết sắp đến, một số thành viên của Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự và Hội Bầu Bí Thân Thương gồm có TS Nguyễn Quang A, các Ông Nguyễn Tường Thụy, Vũ Mạnh Hùng, Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Kim,  Nguyễn Lê Hùng, và Cô Thảo  đi thăm viếng cựu tù nhân lương tâm Phạm Văn Trội tại xã Chương Dương, Thường Tín, Hà Nội.  Họ đã bị công an mặc thường phục chặn lại và lôi vào Ủy Ban Xã rồi lên Văn phòng Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt Nam xã Chương Dương. Tại đây, Ông Nguyễn Kim đã bị công an đánh trọng thương.
     
    Trước đó, vào ngày cuối năm 2013, Ông Huỷnh Ngọc Tuấn cùng một số nhà hoạt động nhân quyền gồm có Bà Lê Thị Công Nhân và chồng là Ông Ngô Duy Quyền, cùng với Ông Phạm Bá Hải đã đến thăm gia đình Ông Phạm Văn Trội tại Hà Tây. Ba người bị công an hành hung là Ông Huỳnh Ngọc Tuấn và vợ chồng Bà Lê Thị Công Nhân. Người bị đánh đập nặng nhất là Ông Huỳnh Ngọc Tuấn.  Một tuần lễ sau, vào ngày 7-1-2014, Ông Tuấn đi khám bệnh vì đau ngực mới biết xương ức bị gẫy.
     
    Buổi họp báo được tổ chức nhắm tố cáo với dư luận quốc tế vế chánh sách đánh đập và tra tấn những nhà hoạt động nhân quyền và các tù nhân, đồng thời tạo áp lực với chính quyền Hà Nội để họ bãi bỏ hoàn toàn chính sách này như Công Ước Chống Tra Tấn của Liên Hiệp Quốc đã quy định.
     
    Tham dự cuộc họp báo này ngoài DB Smith còn có TS Nguyễn Đình Thắng, Giám Đốc BPSOS và CAMSA; Ông Trần Tử Thanh, cựu sĩ quan Quân Lực VNCH và cựu tù nhân chính trị; Bà Trần Thị Ngọc Minh, mẹ của Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, người đang thọ án bẩy năm tù từ năm 2010 vì đã can đảm bênh vực quyền lợi của công nhân và nông dân; Thượng Tọa Danh Tol, tu sĩ Phật Giáo Khmer, cựu tù nhân tôn giáo; và LS Patrick Griffith  thuộc tổ chức phi chánh phủ Freedom Now.
     

    Hình (NQK): Ông Trần Tử Thanh thuyết trình tại cuộc họp báo ngày 16-1-2014 tại Quốc Hội Hoa Kỳ.
     
    Bài báo này trình bầy kinh nghiệm của cựu tù nhân lương tâm Trần Tử Thanh trong trại tù cải tạo của CSVN trong 15 năm từ tháng 5, 1975 đến tháng 12, 1990. Ông Trần Tử Thanh nói:
     
    Trên 800 ngàn quân nhân quân lực VNCH, cán bộ, cảnh sát, các đảng phái đã trở thành nạn nhân của sự trả thù tàn bạo nhất của quân CS xâm lược bằng các cuộc giết hại và ‘tra tấn thầm lặng’… Nhà cầm quyền Hà Nội đã chủ trương và cho áp dụng chính sách trả thù lâu dài bằng các cuộc tra tấn, cả thể xác lẫn tinh thần các tù nhân một cách vô cùng hèn hạ và ác độc chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam

    Trên 165 ngàn tù nhân đã chết tức tưởi trong những trại lao tù CSVN dưới nhiều hình thức như bị hành quyết, tra tấn, đánh đập, cưỡng bức lao động khổ sai, bệnh tật …Tuy nhiên  cách tra tấn tàn bạo và độc ác nhất là ‘chính sách cố tình bỏ đói’. Không cần xử dụng tới vũ khí hay súng đạn, CSVN đã để cho cac tù nhân tự giết mình bằng những loại ‘thức ăn’ dơ bẩn và độc hại.”
     
    Sau đây là nguyên văn bài thuyết trình của Ông Trần Tử Thanh.
     
    oo0oo
     
    Thưa:
     
    -Ông Dân biểu Christopher Smith
    -Quý vị đại diện các tổ chức nhân quyền
    -Quý quan khách và quý vị trong giới truyền thông
     
    Thật là một vinh dự lớn lao cho tôi ngày hôm nay, với tư cách là một cựu tù nhân vì lương tâm, được có cơ hội lên tiếng thay mặt cho hàng trăm ngàn anh em cựu tù nhân cải to, dù đã chết hay còn sống, cũng như hàng ngàn tù nhân chính trị hiện tại còn đang mắc vòng lao lý tại Việt Nam, về một đề tài mà hiếm khi có dịp được trình bày trước các buổi hội nghị hay hội thảo chuyên đề. Đó là câu chuyện sống thật, những cảm nghĩ và tiếng nói của một cựu tù nhân chính trị, trên cơ thể hiện còn đang mang nhiều vết thương tra tấn, hậu quả của nhiều năm bị giam giữ trong ngục tù CSVN.
     
    Vào cuối tháng 4 năm 1975, lúc mà chính quyền Hoa Kỳ chỉ muốn nhanh chóng rút quân cùng toàn bộ nhân sự để khép lại chương sử chiến tranh Việt Nam, họ đã bỏ lại đằng sau hơn 980 ngàn quân đồng minh QLVNCH, với phương tiện thiếu thốn, phải đơn độc đương đầu với quân CSVN được sự hậu thun toàn diện bởi Liên Sô, Trung Quốc và toàn khối Cộng Sản  Vac-Sa-Va (Warsaw Bloc).
     
    Vớí cái giá quá cao vì sự bội ước này mà nhân dân miền Nam Việt Nam phải trả, là trên 800 ngàn quân nhân quân lực VNCH, cán bộ, cảnh sát, các đảng phái đã trở thành nạn nhân của sự trả thù tàn bạo nhất của quân CS xâm lược bằng các cuộc giết hại và “tra tấn thầm lặng.”

     
    Hình (TTT): Ông Trần Tử Thanh trước  và sau 15 năm tù (1990).
     
    Cộng sản đã tập trung họ vào hàng trăm trại cưỡng bức lao động, các phân trại lao cải hoặc các nhà tù được vội vã xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Thế giới đã hoàn toàn bị đánh lừa vì bề ngoài không thấy có các cuộc tắm máu. Nhưng đằng sau những hàng rào an ninh dầy dặc của cái gọi là “trại cải tạo”, nhà cầm quyền Hà Nội, qua các trại lao cải do quân đội quản lý, sau đến qua đến Bộ Nội Công An, đã chủ trương và cho áp dụng chính sách trả thù lâu dài bằng các cuộc tra tấn, cả thể xác lẫn tinh thần các tù nhân một cách vô cùng hèn hạ và ác độc chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam
     
    Theo các tổ chức nghiên cứu về tù nhân và các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, trên 165 ngàn tù nhân đã chết tức tưởi trong những trại lao tù CSVN dưới nhiều hình thức như bị hành quyết, tra tấn, đánh đập, cưỡng bức lao động khổ sai, bệnh tật …

    Tuy nhiên  cách tra tấn tàn bạo và độc ác nhất là “chính sách cố tình bỏ đói.”Trong số người bị bức tử có thân phụ chúng tôi, cố luật sư Trần Văn Tuyên, cựu Phó Thủ Tướng của Việt Nam Cộng Hòa, nhà làm luật, nhà lãnh đạo chính tri, đồng thời cũng là Chủ Tịch, Sáng lập viên của “Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam”, hội viên chính thức của Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền từ năm 1967 (International League for Human Rights). Hai người em họ, con chú bác ruột của tôi là các Thiếu Úy Trần Quang Vinh (Chiến Tranh Chính Trị) và Trần Hoài Hà (Nhẩy Dù) cũng đã bị CS hành quyết tại Ban Mê Thuột vào năm 1976. 
     
    Bị giam giữ trong các trại lao tù cộng sản, chúng tôi biết rằng, hy vọng sống còn để trở về với gia đình là điều quá mong manh. Đối với chúng tôi, tra tấn về thể xác không thấm tháp gì nếu đem so sánh với lối “tra tấn” khủng khiếp là bị bỏ đói. Những cơn đói triền miên ám ảnh chúng tôi kéo dài lê thê ngày này qua ngày khác. Cơn đói hành hạ chúng tôi 24 giờ mỗi ngày. Cơn đói làm mất đi nghị lực, tinh thần và nhân phẩm. Cơm gạo, củ sắn, củ khoai và ngô bắp đã dày vò sự thèm khát thường xuyên của chúng tôi và không có lúc nào để chúng tôi yên.

    Nó đã làm cho không hiếm những anh em đồng cảnh của chúng tôi, có đôi lúc, quên đi họ là “con người”, để chỉ còn giữ lại bản năng tự tồn không khác gì những con vật. Tôi  cho đây là lối “tra tấn thể xác lẫn tinh thần” độc ác và man rợ nhất mà chỉ những người CSVN mới dám làm.  Sau những tháng năm triền miên bị bỏ đói, người tù đã ăn bất cứ con gì biết cử động, từ con chuột cống, sâu bọ, rắn rết, bò cạp, ốc sên, và mọi loại côn trùng mà chúng tôi tìm thấy hoặc bắt được, những thứ mà trong thế giới no đủ, người ta ghê sợ và kinh tởm. Không cần xử dụng tới vũ khí hay súng đạn, CSVN đã để cho cac tù nhân tự giết mình bằng những loại “thức ăn” dơ bẩn và độc hại nêu trên.
     
    Kỷ thuật tra tấn ở các trại lao cải              
     
    Bộ nội vụ CSVN đã đề ra những nội quy, quy định, những điều lệ rất khắt khe và nghiêm khắc nhằm kiểm soát chặt chẽ tư tưởng và hành động của các tù nhân. Bất cứ một tù nhân nào vi phạm nội quy của trại giam như xách động chống đối, tuyên truyền rỉ tai, phổ biến kinh kệ, giáo lý các tôn giáo, nói tiếng ngoại ngữ… khi bị phát hiện qua những tên điềm chỉ (ăng ten) sẽ ngay tức khắc bị đưa giam vào phòng kỷ luật với các biện pháp trừng trị như sau:
     
    -Khẩu phần ăn, tùy theo mùa,  sẽ là một nửa chén cơm gạo mốc nhỏ với vài thìa nước muối, hoặc hai, ba mẩu khoai lang, khoai mì (sắn), hoặc nửa chén nhỏ sắn khô hôi mốc, bo bo chưa xát vỏ, hay ngô hạt rất cứng, loại thức ăn chỉ có ngựa mới có thể ăn và tiêu hóa.
     
    Có hàng trăm tù nhân đã bị “hành quyết” vì trốn trại như Đại Úy Chu Minh Lộc ở trại 12 thuộc Đoàn 776, Yên Bái, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thịnh, trại Suối Máu Biên Hòa hoặc Đại Úy Nguyễn Văn Giàu và Thiếu Tá Lê Đức Thịnh tai trại Long Giao, Long Khánh, Đại Uý Đỗ Văn Mười tại Bình Tuy… Hàng trăm tù nhân đã bị tra tấn đánh đập và cùm chân tay cho đến chết như Linh Muc Nguyễn Văn Vàng, Đại Úy Bác Sỹ Nguyễn Kim Long…ở trại Phú Yên, Thiếu Tá Cảnh sát Nguyễn Văn Hằng ở trại Hà Nam Ninh, Dân Biểu Đặng Văn Tiếp tại trại Lý Bá Sơ, Linh Mục Hoàng Quỳnh, Đai úy Không Quân Dương Hùng Cường ở trại giam Phan Đăng Lưu, Đại úy Lực Lượng Đặc Biệt Đoàn Văn Xương tại trại số 6 Nghệ Tĩnh… Còn hàng trăm, hàng ngàn người nữa mà tôi không thể liệt kê hết ngày hôm nay.
     
    Tùy theo mỗi trại giam, cong an CS đã được huấn luyện thuần thục hoặc tự sáng chế ra những phương pháp trừng phạt đa dạng và tra tấn man rợ khác nhau như sau trong khi bị biệt giam:
     
    1.     Nhẹ nhất là khóa hai tay ra đằng sau lưng.
    2.     Trói ngược hai tay ra sau và xiềng hai chân
    3.     Xích một tay bên này vào chân bên kia bằng sợi giây xích ngắn. Cách này làm cho tù nhân không thể cử động hay nằm ngủ được, chỉ ngủ ở thế ngồi. Nếu dang chân hay tay ra thì cổ tay hay mắt cá sẽ bị cứa đứt, chảy máu.
    4.     Xiềng hai cánh tay ngược lên đằng sau vai với hai chân gấp ngược lên lưng. Cách này chỉ có thể nằm sấp, một phần của ngực áp xuống sàn xi măng. Cách xiềng này khó ai có thể chịu đựng được quá 3 tiếng đồng hồ.
    5.     Cùm hai chân lâu dài trong phòng tối. Tù nhân phải ăn ngủ và vệ sinh tại chỗ. Rất nhiều trường hợp cùm rỉ sét làm cho mắt cá bị nhiểm độc, lở loét.
    6.     Riêng tại Miền Nam Việt Nam, CS thường nhốt trừng phạt tù nhân với thế ngồi co gấp trong một thùng sắt nhỏ gọi là conex để ngoài trời nắng như thiêu đốt, miền nhiệt đới . Nhiều tù nhân đã chết vì không chịu nổi sức nóng hay bị ngộp thở bởi cách tra tấn tàn ác này.
     
    Cá nhân tôi, trong một buổi tẩy não mà CS gọi là “học tập chính trị”, đã từ chối dùng tiếng “thằng”thiếu lễ độ để gọi cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng lôi tôi ra khỏi lớp, đưa lên ngọn đồi thấp sau trại, nơi đó có 4 tên cai tù bắt đầu đấm đá liên tục vào ngực và vào bụng tôi một cách man rợ.  Với phản ứng tự nhiên, phải chống đỡ tự vệ vì quá đau đớn. Một cai tù đã dùng bá súng AK47 đập mạnh vào mặt tôi, làm bể mí mắt bên trái. Mặt tôi máu đầm đìa, chảy thấm ướt sũng bộ áo  quần tù. Cú đánh tiếp thứ hai rất mạnh làm gẩy 3 răng hàm bên trái.

    Vì trận đòn quá đau đớn, lại mất nhiều máu, tôi đã bị ngất xỉu tại chỗ.  Kết quả trận đòn này, tôi đã bị ho ra máu nhiều tháng cho đến khi nhờ các anh em tù “biệt kích Nhảy Bắc” cùng trại biết được sự việc, đã tuồn vào cho một mẩu nhỏ mật gấu bằng móng tay, dặn tôi mài ra uống với vài giọt rượu hoặc nước ấm; nhờ vậy bệnh mới thuyên giảm.
     
    Ngày 16 tháng 12 năm năm 1983, tôi lại bị công an Bộ Nội Vụ bắt giam lần thứ hai về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân qua “Tổ Chức Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc.”  Sau khi bắt, công an bịt mắt chuyển tôi đến trại giam T82 ( hiện T82 đã được đổi thành B34 để ngụy trang che dấu). Để ép cung, công an phòng Điều Tra Xét Hỏi cho cùm cổ chân phải vào cườm tay trái của tôi với sợi xích ngắn hầu không cho tôi cử động. Suốt thời gian thẩm vấn tôi, công an đã tận dụng mọi kỹ thuật khai thác như “ép cung”, “mớm cung”, “dụ cung”, ép buộc tôi phải nhận tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và khai báo theo ý muốn của chúng để chúng có đủ bằng chứng “kết án tôi tử hình”.

    Chúng dùng đủ mọi hình thức nhục hình để khai thác tin tức, áp dụng các kỹ thuật hỏi cung tinh vi, tra tấn không để lộ dấu vết trên cơ thể tù nhân. Nhiều tối, có lúc bốn, năm tên thẩm vấn viên thay phiên nhau tra hỏi, đánh đập tôi nặng nề, chúng biết tránh chỗ tử huyệt vì chúng muốn tôi sống để khai thác thêm những tin tức mà chúng cần. Một tra tấn viên tên Thanh Sơn dùng dùi cui bọc cao su đánh vào sườn non tôi trong khi hai tên khác (tên Chánh và tên Lê Văn Để) đè tôi xuống ghế dài. Sau đó chúng đánh vào lòng hai bàn chân. 

    Mỗi lần chúng đánh như thế toàn thân tôi, từ đầu óc đến lục phủ ngũ tạng thật đau đớn, thân thể như bị điện giựt. Chúng còn dùng cả cách tra tấn gọi là cho đi “tầu ngầm” bằng cách phủ một bao bố lên mặt rồi bắt đầu đổ nước để cho ngạt thở khi chúng bắt tôi  thú nhận là nhân viên tình báo và là gián điệp của cơ quan CIA Hoa Kỳ. Nhiều lần hai thẩm vấn viên dìm đầu tôi vào bể nước trong khi tay tôi bị còng thúc ké ra sau.
     
    Suốt 14 tháng trời, công an biệt giam tôi để thẩm vấn ở trại T82 dưới sự chỉ huy của hai tên đại tá Lâm Quốc Hùng, trưởng phòng và tên trung tá Trần Hùng Nghiệp (gốc QuảngNgãi), phó phòng PA 24 (Phòng Điều Tra Xét Hỏi), sáu tên công an trong đó có tên Thanh Sơn và tên Chánh (gốc miền Nam) đã 3 lần dùng loại điện thoại hữu tuyến EE8  của quân đội Hoa Kỳ, nối hàm cá sâu, kẹp vào đùi và bộ phận sinh dục của tôi để quay điện. Thình lình bị điện giật quá mạnh, tôi té bật ngửa xuống sàn và tiểu ra quần. Kiểu ép cung này được CS thường dùng nhất khi thẩm vấn các tù chính trị, đặc biệt là đối với các tù nhân từ hải ngoại xâm nhập vào Việt Nam để hoạt động vào những năm 1984-1985.
     
    Thỉnh thoảng trong lúc tra tấn, thẩm vấn viên đưa cho tôi xem tấm hình đứa con nhỏ 10 tuổi mà tôi đã xa cháu khi bị bắt vào tháng 5 năm 1975, lúc cháu mới một tuổi.  Tên trung tá Trần Hùng Nghiệp nói nếu tôi nhận tội, sẽ cho gặp mặt con.  Hắn dùng đòn tâm lý để lung lạc ý chí và tinh thần của tôi trong suốt thời gian dài tôi bị biệt giam tại trại T82 (hiện nay là B34), tại trại giam Phan Đăng Lưu và khu xà lim Kiên Giam khu E-D, lầu ba, khám Chí Hòa. Cuối cùng khi tôi vẫn cương quyết giữ vững lời khai, cộng với sự can thiệp của Thủ Tướng Thụy Điển Olof Palmer, của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và của chánh giới Hoa Kỳ, Bộ Nội Vụ CSVN lúc đó mới tuyên bố đang giam giữ ba anh em chúng tôi và sẽ truy tố chúng tôi về tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và “Tuyên truyền chống chế độ XHCN.”
     
    Tính ra trong lần tù thứ hai này, từ lúc bị bắt cho tới khi bị đưa ra tòa 12/83-12/88, tôi đã bị biệt giam suốt 4 năm 6 tháng , hai năm với hai chân bị cùm và hai năm sáu tháng với một chân bị cùm trong xà lim tăm tối, hôi thối và ẩm mốc. Thân xác chẳng khác nào như đã bị tẩm lịệm trong quan tài dài 2 mét rưỡi, ngang 90 cm với chiều cao 2 mét, và chịu đựng đánh đập tra tấn hàng ngày.

    Khi ra tù, tôi mang nhiều thứ bệnh, phổi bị tụ máu và xuất huyết bao tử . Công an tra tấn CS đã biến cơ thể tôi trở thành bộ xương chỉ còn hơn 35 kí lô.  CS có thể hủy diệt thân thể tôi nhưng chúng đã thất bại trong âm mưu hủy diệt ý chí và tinh thần của một “Tù Nhân vì Lương Tri”. Trong ngục lạnh cô đơn, tôi luôn cố tập luyện thiền định hàng ngày để bồi đắp sức mạnh ý chí và tinh thần hầu có thể vượt qua mọi gian khổ.
     
    Với bao năm tháng tù đày trong khám tối và bị tra tấn đánh đập sau gần 15 năm tù, mắt tôi rất sợ ánh sáng chói lòa, thường hay bị nhức đầu, chóng mặt, có lẽ do hậu quả bị đánh bằng báng súng AK47 trước đây.
     
    Cũng vì bị tra tấn đánh đập trong thời gian dài, nên có lúc tôi thấy thường đau nhói bên ngực trái vùng trái tim. Tôi tin đó là hậu quả bị đánh nhiếu quá vào bàn chân và ba sườn. Trong những tháng mùa đông giá lạnh, chân cẳng tôi bị đau buốt đến xương tủy như thể bị kim châm. Mặc dù đã thoát chết, thoát tù đầy đã trên 25 năm qua, nhưng đôi lúc vào nửa đêm chợt thức giấc, trong khoảnh khắc, tôi  thấy mình còn như đang nằm trên nền xi măng vắng lạnh trong ngục tù CS ngày nào.
     
    Xương sống tôi đã bị thương nặng khi một tên trong bọn tra tấn dùng một thế võ đá mạnh vào lưng từ phía sau, khiến tôi té xấp xuống nền. Nhờ được giãi phẩu tại bệnh viện Fairfax năm 1994, những cơn đau nhức cột sống đã thuyên giảm , chân trái của tôi đã bớt tê nhức.
     
    Kính thưa Quý Vị,
     
    Là một cựu tù nhân vì lương tâm, thay mặt cho hàng trăm ngàn các anh em cựu tù nhân chính trị dồng cảnh đang lưu vong, và đặc biệt là nhân danh cho những anh chị em tù chính trị và tôn giáo hiện đang bị giam cầm bởi nhà cấm quyền Hà Nội, và đồng thời cũng đại diện cho 90 triệu đồng bào Việt Nam, Tôi trân trọng thiết tha kêu gọi tất cả quý vị hiện diện nơi đây ngày hôm nay, hãy nói lên cho giới truyền thông quốc tế và Hoa Kỳ biết rõ sự thật về vấn nạn tra tấn nhục hình, đánh đập, bạo lực của công an CSVN đối  với người dân, đồng bào của họ. Tôi cũng xin khẩn cầu quý vị hãy bày tỏ sự quan tâm sâu xa với  Quốc Hội, chính giới và chính phủ Hoa Kỳ, cũng như với các lãnh đạo tôn giáo nước này tiếp tục lên tiếng, áp lực nhà cầm quyền Hà Nội phải lập tức xóa bỏ “tệ nạn tra tấn”, và xử dụng bạo lực với người dân Việt Nam. Bạo lực và áp bức mà nhân viên công an của họ vi phạm hàng ngày trên toàn đất nươc Việt Nam phải được chấm dứt ! Việt Nam phải tôn trọng những điều khoản mà họ vừa ký kết trên văn kiện mới đây với Liên Hiệp Quốc về chống tệ nạn tra tấn. Nhà cầm quyền Hà Nội cũng phải chấm dứt dùng vũ lực giết người để đàn áp đồng bào của mình. Nhân dân Việt Nam phải được bảo vệ bằng một Bộ Luật về chống tra tấn. Giới công nhân, nông dân, các thanh niên, sinh viên Việt Nam yêu nước, quý trọng tự do dân chủ đang bị đán áp cũng chỉ vì họ mơ ước thấy một nước Việt Nam phát triển, với một nền kinh tế giàu mạnh, với một thể chế dân chủ, một nhà nước pháp quyền biết tôn trọng nhân phẩm, một Việt Nam hội nhập hoàn toàn với cộng đồng thế giới.
     
    Một lần nữa tôi chân thành cám ơn quý vị đã lắng nghe và hết mình hỗ trợ nhân dân Việt Nam hiện đang phải sống trong kềm kẹp và áp bức dưới chế độ phát xít CSVN.
     
    Trần Tử Thanh,
    Cựu Đại Úy QLVNCH, Cựu Tù Nhân Vì Lương Tâm
    Quốc Hội Hoa kỳ, ngày 16.1.2014

    Bệnh tật trong trại cải tạo

    BS Trần Mộng Lâm   


    Cố Bác Sỹ Trần Vỹ, cựu bộ trưởng Bộ Y Tế thời Đệ nhất Cộng Hòa, người thầy rất đáng kính của tôi, viết trong cuốn hoi ký Tù Nhân Chính Trị của ông về cái chết của một người bạn đồng đội, chết trong trại tập trung 52-A ngoài Bắc: Đại Tá Đỗ Kiến N., cựu quận trưởng một quận Saigon. Người khá vạm vỡ, anh ấy thuộc thành phần những người chịu đựng rất khó khăn việc ăn uống thiếu thốn. Anh ấy phì ra, bị phù tất cả người và đi đứng khó khăn.

    Cán bộ y tế ngây thơ cứ tưởng rằng chỉ cần kiêng muối cho cơ thể là làm biến mất bệnh phù, đã cho anh ăn đường. Điều này đã làm cho anh suy yếu thêm. Một buổi sáng, sau một đêm lạnh hơn thường lệ trong mùa, không thấy anh cử động khi tới giờ thức dậy, nhiều bạn bè nằm gần đến đánh thức anh nhưng anh không trả lời dù còn thở một cách yếu ớt! Đại Tá Đỗ Kiến N. đã chết sau đó.

    Thầy Trần Vỹ viết tiếp: Vì sao N chết? Vì đói, Tất cả các bạn tù thì thầm. Vì bệnh phù thủng, cán bộ công an tuyên bố.

    Ba chục năm đã qua đi kể từ cái chết đó. Ngày hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại giai đoạn bi thảm này để suy nghĩ về những bệnh tật trong trại cải tạo.

    Người tù cải tạo suy yếu từ thể xác đến tinh thần nên rất dễ mắc bệnh. Sức đề kháng của cơ thể họ xuống thấp một cách trầm trọng nên một cơn gió, một sự thay đổi thời tiết tầm thường cũng là một lý do đủ để làm người tù bỏ mạng hay liệt giường liệt chiếu nhiều tháng trời. Một cách tổng quát, ta có thể chia ra những bệnh tật trong tù ra làm ba nhóm bệnh chính:

    1) Nhóm bệnh thứ nhất gây ra bởi sự thiếu dinh dưỡng.

    Tôi đã ở trong trại cải tạo nhiều năm trời nên đã hiểu một cách rất rõ thế nào là cái đói trong những ngày tháng đen tối đó. Hãy nghe BS Trần Vỹ kể chuyện tù tội của ông: Một buổi xế trưa, khi đến bệnh xá để lấy thuốc cho các bạn tôi, tôi đã thấy cách một vài thước trước cửa vào, một người thường phạm đã suy mòn, ngồi ngay dưới đất bụi bậm, năn nỉ không ngừng với giọng rên rỉ:

    -Ối ông cán bộ ơi, xin hãy thương sót tôi, hãy cho tôi ngay bây giờ chén cơm và cái trứng mà ông sẽ để lên quan tài khi tôi chết. Tôi đói quá, tôi không cần chúng sau khi tôi chết.

    Quả đúng là như vậy, cái đói đưa tới cái chết một cách dễ dàng. Người Y Sỹ nào cũng biết được là sự thiếu sinh tố B1 có thể làm người ta chết. Một sự thiếu sinh tố A có thể làm người ta mù, thiếu sinh tố B12 sinh ra thiếu máu, vân vân và vân vân. Nếu sự thiếu thốn đó ngắn hạn, người ta có thể chịu đựng được nhưng nếu bị cải tạo năm này qua năm khác, làm sao tránh được những cái chết thê thảm như cái chết của Đại Tá Đỗ Kiến N. như đã mô tả ở trên.

    2) Nhóm bệnh thứ nhì cũng rất quan trọng là những bệnh nhiễm trùng:

    Khi bị đưa vào U Minh để cưỡng bách lao đông vào năm 1976, hai chân tôi nổi đầy những vết ghẻ lở. Vết thương này chưa lành thì lại có các vết thương khác nổi lên. Cho đến nay những vết thẹo vẫn còn đầy nơi hai cẳng chân của tôi.

    Cuối năm 1976, tôi được chỉ định làm y sỹ cho những người tù đồng bọn. Một đàn anh của tôi, cựu dân biểu của một tỉnh mà tôi quên mất tên, Kiến Phong thì phải, hai mắt và da bỗng trở nên vàng khè, nước đái sậm đen như nước mắm. Tôi biết anh bị đau gan nặng mà đề nghị gửi đi bệnh viện cán bộ không cho nên cứ phải nhìn anh thoi thóp giữa đồng không mông quạnh của rừng núi Cà Mau. Không hiểu vì sao mà anh ta không chết và bệnh đau gan cũng không gây nên một cơn dịch đau gan như tôi sợ. Có lẽ vì đa số chúng tôi đã có được kháng thể trong người từ lâu rồi mà không hay, không biết.

    Thầy Trần Vỹ kể lại trong sách đã nêu: Trong số những bệnh nhân có một cựu thiếu tá đã làm việc tại phủ Thủ Tướng. Anh ấy đã sốt nhiều ngày và bị đau ở ngực. Tôi đã áp tai vào lưng anh. Lúc bấy giờ tôi nghe rõ những dấu hiệu của chứng viêm phổi nhưng người ta nói không có gì trầm trọng và chích cho anh sinh tố B1. Tôi khuyên anh nên hỏi xin các bạn tù vài viên thuốc kháng sinh. Tôi không bao giờ biết được anh ta có tìm được kháng sinh hay không nhưng anh ta tiếp tục đi tới cái chòi nhỏ « bệnh xá » và vài ngày sau anh ta qua đời.

    Thật sanh mạng một người tù cải tạo rẻ như bèo.

    Người chỉ huy cũ của tôi, cựu Trung Tá Y Sỹ chỉ huy trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ trong thời gian bị cải tạo ngoài bắc đã phải mổ gấp một trường hợp sưng ruột dư cấp tánh cho một bạn tù trong những điều kiện rất là trung cổ, khi nghe kể lại trong lần anh ghé Montréal thăm chúng tôi, tôi còn rợn tóc gáy, nổi da gà. Nghĩa là chẳng có dao mổ, có khử trùng gì cả. Biết làm sao hơn, không mổ thì cầm chắc cái chết. Ông thầy của tôi mát tay nên đã cứu được bệnh nhân tuy anh khiêm nhường nói là: "Thằng ấy số nó chưa chết!".

    3) Nhóm bệnh thứ ba là nhóm bệnh thuộc về tâm thần.

    Sự tuyệt vọng gây nên những chứng bệnh mà chúng tôi gọi là Depression majeure. Người bệnh không còn thiết sống nữa. Những trường hợp tự tử tôi nghe kể lại rất nhiều tuy không chứng kiến, lý do là thời gian cải tạo của tôi tương đối ngắn, chỉ không bằng một phần nhỏ thời gian tù tội của những người khác.

    Tuy nhiên có một trường hợp mà tôi là nhân chứng đàng hoàng. Một cựu đại úy được đưa vào cưỡng bách lao động với tôi tại Kim Quy, Đá Bạc thuộc tỉnh Cà Mau. Anh ta vốn là lính kiểng, con nhà giàu, học xong bị động viên và vào quân đội mà thôi chứ tôi nghĩ cũng chưa từng giết ai bao giờ. Vào tù được ít lâu thì vợ bỏ theo cán bộ CS trung úy công an gì đó. Cha mẹ già yếu lo buồn sau đó cũng qua đời. Ít lâu sau anh lại nhận được tin đứa con trai 5 tuổi cũng chết luôn không hiểu tại sao.

    Một đêm cuối tháng 12 chúng tôi đang nằm ngủ trong những cái chòi dựng tạm bợ giữa núi rừng Cà Mâu thì bỗng thấy tiếng ai gào lên trong đêm trường tịch mịch « ĐM HCM, ĐM HCM »

    Anh bạn đồng tù của tôi đã phát điên lên vì đau khổ.

    Ba mươi năm đã qua đi từ những kỷ niệm đau thương đó. Lòng tôi bây giờ giá lạnh. Tôi không còn hận thù gì những người đã từng làm cán bộ quản giáo của tôi. Tôi biết là họ cũng như tôi chỉ là những phần tử thụ động. Tôi sẵn sàng tha thứ cho những khuôn mặt một thời hét ra lửa mửa ra khói đó nhưng làm sao quên được những người bất hạnh? Sinh ra không đúng thời, sống không đúng chỗ./.

    BS Trần Mộng Lâm

    Tù nhân từ Cổng trời trở về
    cướp máy bay vượt biên

    Thanh Trúc, phóng viên RFA
    2015-03-12


    Inline image 1

    Tù nhân từ Cổng trời trở về cướp máy bay vượt biên

    10 người vượt thoát bằng trực thăng UH 1 từ phi trường Bach Mai, Ha Nội, ông Dương Văn Lợi đứng thứ 6 từ trái qua.

    Hình ảnh do ông Dương Văn Lợi cung cấp

    Rạng sáng ngày 30 tháng Chín năm 1981, chiếc trực thăng UH1 từ thời Việt Nam Cộng Hòa mà quân đội Bắc Việt tiếp thu, cất cánh khỏi phi trường Bạch Mai, đặt Hà Nội trong tình trạng báo động khẩn cấp.

    Đó là chuyến vượt thoát của 10 người gồm 3 phi công miền Bắc, 5 thành viên trong gia đình miền Nam của ông Dương Văn Lợi, tù nhân trở về từ hai trại tù khét tiếng Nam Hà và Cổng Trời ở miền Bắc. Chuyến vượt thoát gian nan với những tình tiết bất ngờ được ông Dương Văn Lợi ghi lại trong tập sách Hà Nội Báo Động Đỏ, quyển một đã xuất bản và quyển hai chưa viết xong: Qua Pháp đầu năm 1986, sau một năm tôi bắt đầu viết. Đầu tiên tôi viết bằng tiếng Pháp, gọi là Helicoptere De La Liberte, Hành Trình Trực Thăng Đi Tìm Tự Do, hoàn tất năm 1990.

    Năm 1992, khi ông Colby, xưa là giám đốc CIA mà lúc đó ông về hưu rồi, mời tôi qua bên đó ba tháng, tôi mới bắt đầu viết cuốn Hà Nội Báo Động Đỏ tại Washington DC.

    Tại sao Hà Nội Báo Động Đỏ, ông Dương Văn Lợi giải thích:

    Lúc mà tôi đi là ở Hà Nội báo động ba ngày, nội bất xuất ngoại bất nhập. Tôi qua bên Tàu thì được bên đó cho biết đó là cuộc báo động lớn nhất của cộng sản Hà Nội. Tôi đi khóa 12 Thủ Đức và tôi giải ngũ năm 1964. Từ 1964 cho đến 1975 tôi là kỹ sư công chánh, làm về xây cất. Nếu đi là lúc 1975 tôi đi một cách dễ dàng vì tôi làm cho Mỹ mà.

    Những năm tù tội

    Không lâu sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, thấy không thể sống trong chế độ với những chính sách trấn áp và kiểm tra hà khắc, ông Dương Văn Lợi bắt đầu tìm cách trốn đi, khởi đầu những năm dài tù tội sau đó:

    Tháng Bảy năm 1975, 30 người đi vào rừng, phần đông là cựu quân nhân mà không đi trình diện. Anh em tổ chức chứ không phải một mình tôi, định vô rừng nếu gặp những thành phần không đầu hàng thì mình hợp tác, nếu không thì mình vượt biên qua bên Lào, bên Miên.

    Ba chục người chia làm 3 nhóm đi lên vùng Tam Biên. Đến tháng Tám nhóm của ông Dương Văn Lợi bị bắt tại vùng bên giới Tam Biên, giải thẳng về Ban Mê Thuột sau đó tống về khám Chí Hòa. Hai nhóm kia cũng không may mắn hơn, họ mất liên lạc với nhau từ đó. Giam tại Cổng Trời từ 77 đến 78. Năm 78, 79, sự thật nếu không có bọn Tàu đánh qua thì chưa biết chúng tôi sống chết ra sao bởi ai cũng biết Cổng Trời là muôn năm cho tới chết.

    Tháng Mười năm 1975, ông Dương Văn Lợi được tạm tha nhưng vẫn bị theo dõi sát. Tháng Mười Một cùng năm ông bị bắt trở lại:

    Tôi thuộc diện bị tập trung cải tạo, bị đưa lên Long Khánh tháng Hai năm 1977, bị ghép tội phản động. Sau họ xét nhà thì họ bắt những tài liệu tôi làm cho Mỹ về vấn đề xây cất. Họ ghép tôi là CIA cái đó mới là nặng. Tháng Tư năm 1977 họ đưa chúng tôi ra Bắc, đầu tiên giam ở Nam Hà . Ra đó coi như mình tiêu rồi, coi như chết rồi, do đó anh em bắt đầu chống đối không chịu đi lao động. Tới Noel 1977, khoảng 12 giờ khuya họ kêu anh em cùm lại để đi lên Cổng Trời.

    Giam tại Cổng Trời từ 77 đến 78 . Năm 78, 79, sự thật nếu không có bọn Tàu đánh qua thì chưa biết chúng tôi sống chết ra sao bởi ai cũng biết Cổng Trời là muôn năm cho tới chết.

    Vì cuộc chiến biên giới đó mà nhiều tù nhân Cổng Trời, trong đó có ông Dương Văn Lợi, được chuyển về Thanh Hóa: Về đó họ đưa lên cùm liền, nặng thì cùm trước như cha Lễ hay đại tá Trịnh Tiếu. Tôi với Đặng Văn Tiếp thì lên cùng lượt, sau đó nhà đá bớt người thì họ đưa lên. Cùm trong nhà đá là kinh khủng. Cho đến năm 1981 trên đó mà bị kỷ luật thì gia đình không được tiếp tế, năm đó chết cũng nhiều. Nhưng bắt đầu từ đó thì họ biết ăn hối lộ rồi, gia đình tôi chạy 10 lượng vàng để tôi được thả tháng Tư năm 1981. Nó chịu ăn hối lộ mình mới chạy được.

    Về Sài Gòn, ông Dương Văn Lợi chỉ theo lệnh trình diện tại Bộ Nội Vụ nhưng không ra trình diện ở phường. Mục đích của ông lúc đó là tìm kiếm đường đi bằng mọi giá.

    Kế hoạch cướp máy bay

    May sau này nhờ bà con móc nối, lại thêm sự hỗ trợ của người em là sĩ quan công an của chế độ mới, ông Dương Văn Lợi làm quen với một số phi công bộ đội chuyên lái trực thăng đang chờ ngày ra tòa vì tội buôn lậu. Mọi người thảo kế hoạch cướp máy bay trốn đi: Khi mà máy bay đậu tại phi trường Bạch Mai thì nó gỡ hết bình điện, gỡ hết không bàn, lúc đó thì phải đi tìm mua. Mãi tới 5 tháng sau thì mới tìm được cái bình điện đã 10 năm.

    Phi công trực thăng mà đi buôn lậu bên Kampuchia, nguyên cả phi hành đoàn đó bị bắt, ba người bị hết. Nên nhớ phi công là con ông cháu cha không chứ đâu phải nhỏ, đã bị treo giò bị kỷ luật vẫn còn ở Tân Sơn Nhất, tụi nó cũng dự định trốn. Khi thấy kế hoạch trốn đi từ Tân Sơn Nhất không thành, mọi người chuyển hướng ra phía Bắc:

    Cuối cùng anh phi công chánh người Nghệ An và có em tôi là sĩ quan công an Việt Cộng bây giờ đang ở bên Nhật Bản, cho biết phi trường Bạch Mai chấm được thì mới bắt đầu đi tìm mua không bàn với bình điện. Khi mà máy bay đậu tại phi trường Bạch Mai thì nó gỡ hết bình điện, gỡ hết không bàn, lúc đó thì phải đi tìm mua. Mãi tới 5 tháng sau thì mới tìm được cái bình điện đã 10 năm mà khi ra Hà Nội sạc vẫn mạnh như thường.

    Chiếc trực thăng đó là của anh phi công tại Hà Nội đại khái lái giỏi nhất. Anh phi công đó ngày 30 tháng Chín phải ra hội đồng kỷ luật, anh nói cuối tháng Chín mà không đi thì coi như bỏ hết. Chiếc trực thăng UH 1 đó của Bộ Chính Trị đi mà. Máy bay thì có người lo, tôi chỉ lo vấn đề mua bình, mua không bàn, ra ngoài đó thì em tôi có trách nhiệm đi sạc bình lại.

    Đến giờ G của ngày 30 tháng Chín, dự dịnh cất cánh vào lúc 4 giờ sáng không thành với những pha gây cấn đến thót tim. Theo sắp đặt, phi công chính và phi công phụ vào phi trường Bạch Mai bằng cửa chính. Phía ông Dương Văn Lợi mang theo hai con trai, người em ruột và một người cháu:

    Inline image 2

    Chiếc trực thăng UH 1 mang số 576 cướp từ phi trường Bach Mai phai đáp xuống vùng quê tỉnh Quảng Tây khi máy báo hết xăng. Hình ảnh do ông Dương Văn Lợi cung cấp.

    Đã cam kết là không cho đàn bà đi nhưng khuya đó anh phi công đem cô hôn thê của anh ta, cô đó lại cho một người bạn nữa đi theo. Thấy hai cô gái tôi chưng hững rồi, nhưng máy bay của người ta tôi đâu có từ chối được, mà để lại thì cũng nguy hiểm, thành ra có 10 người.

    Phi trường Bạch Mai chỉ có 3 chiếc trực thăng thôi, tôi định cất cánh là đúng 4 giờ sáng. Hai người vô cửa chính là anh phi công chính và phi công phụ vì còn công tác ở đó tới hết tháng chín mới ra hội đồng kỷ luật. Nhóm của tụi tôi thì đợi tại cầu Long Biên, tôi, 2 cô gái, 2 đứa nhỏ với một thằng cháu.

    Đã cam kết là không cho đàn bà đi nhưng khuya đó anh phi công đem cô hôn thê của anh ta, cô đó lại cho một người bạn nữa đi theo. Thấy hai cô gái tôi chưng hững rồi, nhưng máy bay của người ta tôi đâu có từ chối được, mà để lại thì cũng nguy hiểm, thành ra có 10 người.

    Một anh đem bình điện thì phải đi giao thông hào, nhưng khi vô đó ban đêm mà chiếc máy bay UH 1 của mình nó nhỏ hơn chiếc MI 8 của Nga, ban đêm tối thui anh đi lố đi. Hai người vô trước đợi hoài không thấy bình điện, đợi đến 5 giờ là buổi sáng trại gia bình họ tập thể dục mà vẫn chưa thấy bình vô. Tới khi anh này trở ra, cắt hàng rào kẽm gai đưa cái bình điện vô rồi thì mừng quá.

    Đó là thời gian mà phi trường Bạch Mai được lệnh canh gác cẩn mật do trước đó hai tuần đã xảy ra vụ một thiếu úy an ninh quân đội Bắc Việt tình nghi cướp trực thăng nhưng không may bị chận bắt trở lại:

    Cho nên sau đó mỗi chiếc trực thăng đều có một anh lính gác đạn lên nòng. Không ngờ cái anh lính gác đó lại là em chú bác gì với anh phi công chính, ảnh mới nói tao vô sửa soạn máy bay để sáng đưa các thủ trưởng đi công tác sớm. Sẵn có cây sắt khoảng 3 gang thì làm sao mà nó đội nón sắt mà đập ngay cần cổ cho nó ngất xỉu được? Thì người anh mới mời nó hút thuốc, bật hộp quẹt đưa ra thì ảnh cứ kéo kéo cho người này cúi đầu xuống thì anh phi công phụ đập anh lính gác một cây cho xỉu rồi đưa bình điện lên ráp.

    Không may vừa ráp xong thì người lính gác tỉnh dậy và bỏ chạy nhưng lại không kêu được tiếng nào. Thế là hai người phi công cố rượt theo và đánh cho anh ta ngất đi một lần nữa: Xong rồi lên trực thăng mà trời đang tối, mở công tắc một cái thì cái đèn trên bảng điều khiển nó sáng như một cái thành phố, cho nên anh cơ phó giựt đứt sợi dây liền, tối thui luôn, rồi bắt đầu cho máy chạy. Không ngờ cánh quạt ở trên cột sợi dây cáp mà không ai để ý. Anh cơ phó nhảy lên cởi giây cáp xong rồi xuống bật lại cho máy nổ, từ đó xuống cầu Long Biên đón tụi tôi liền, đón 6 người.
    Inline image 3

    Ông Dương Văn Lợi khi đến Paris

    Chiếc trực thăng UH 1 bốc lên cao, trực chỉ hướng Hồng Kông
    như đã tính toán, nhưng: Bay hai tua trở lại thì vẫn thấy thành phố Hà Nội. Phi công mới nói chết rồi không thấy không bàn đi không được. Hên là người cơ phó sực nhớ có hộp quệt, mới quẹt lên rồi để ngay cái không bàn, bắt đầu mới đi tiếp.

    Đến Bắc Kinh

    Run rủi thế nào chiếc UH 1 lại đáp xuống một nơi ở Quảng Tây của Trung Quốc thay vì Hồng Kông. Thời gian đó, điểm trùng hợp là nhóm của ông Dương Văn Lợi và chiếc UH 1 đến Trung Quốc chỉ sau vụ ông Hoàng Văn Hoan, một đảng viên cộng sản cao cấp Việt Nam, bỏ trốn qua Trung Quốc không lâu. Đây cũng là thời kỳ mà mối quan hệ Việt Trung không còn mặn nồng, vì thế Bắc Kinh muốn lợi dụng sự kiện chiếc UH 1 và 10 người trốn từ Việt Nam sang để tuyên truyền chống Hà Nội. Đó cũng là lý do những người mới đến được đưa về Bắc Kinh và được tiếp đãi trọng thể như khách quí.

    Bay hai tua trở lại thì vẫn thấy thành phố Hà Nội. Phi công mới nói chết rồi không thấy không bàn đi không được. Hên là người cơ phó sực nhớ có hộp quệt, mới quẹt lên rồi để ngay cái không bàn, bắt đầu mới đi tiếp

    Họ cho một đại đội gác cái máy bay, đưa tụi này về tỉnh, nói là tụi này chống tập đoàn Lê Duẩn. Một tuần lễ sau Bắc Kinh cho một chiếc máy bay đặc biệt rước tụi tôi về Bắc Kinh luôn. Họ tưởng tụi tôi đi như vậy thì sẽ tị nạn tại Bắc Kinh. Tôi còn nhớ họ cho ông thứ trưởng Ngoại Vụ và thứ trưởng Bộ Công An lên chấp nhận cho tụi tôi đến Trung Quốc.

    Sau một thời gian, khi nghe những người trong nhóm trình bày ý muốn gặp đại diện của Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh để xin đi tị nạn tại một quốc gia khác, sự tiếp đón nồng hậu của Trung Quốc giảm hẳn: Nghĩa là đổi 180 độ, hận thù. Tôi ở Bắc Kinh trên 6 tháng, lúc Liên Hiệp Quốc liên lạc với bên Mỹ thì bên Mỹ viết cho tôi thơ trả lời. Tôi gởi một đơn nữa thì bên đó cho người qua, nói với tụi tôi là 10 người các anh đến Mỹ thì không sao hết nhưng chúng nó có cho các anh đi đâu. Chúng nó là Tàu đó. Không ngờ là Mỹ cho đi mà Trung Quốc không cho.

    Cuối cùng Hoa Kỳ nhận cho gia đình ông Dương Văn Lợi đi, nói rõ không vì lý do chính trị mà vì ông từng làm việc cho Mỹ ở Sài Gòn trước kia: Nhưng cũng không ngờ là mấy anh em phi công không chịu, nói cho đi thì cho đi hết còn không cho đi thì không cho đi hết. Cho nên Mỹ từ chối khi đang làm giấy tờ cho tôi đi. Hai năm rưỡi sau, từ Bắc Kinh gia đình ông Dương Văn Lợi được đưa về Liễu Châu với khuyến cáo nếu không muốn ở lại Trung Quốc thì phải vào sống trong trại tị nạn:

    Mà trại tị nạn ở bên Tàu trời ơi, nói không nỗi. Bắt đầu mấy anh phi công cũng nản rồi, biết là đi không được rồi... Tại Liễu Châu, làm quen với một số người Việt từ Hà Nội hoặc Hải Phòng trốn qua Hồng Kông rồi bị bắt trả về Trung Quốc, ông Dương Văn Lợi gom góp tiền bạc để dành nhờ họ mua một chiếc thuyền cũ. Quyết định của ông là phải đi khỏi Hoa Lục và lần này bằng đường biển: Tìm vượt đường biển từ đó lên tới Quảng Châu chỗ có biển tới 3.000 cây số lận. Nó cũng ham đi chứ nếu nó không ham đi mà lấy hết tiền thì tôi cũng kẹt bên Tàu luôn rồi.


    Inline image 4

    Năm người chủ mưu vụ cướp máy bay để vượt biên năm 1981 bị Hà Nội xử tử vắng mặt. Hình ảnh do ông Dương Văn Lợi cung cấp. Lo xong mọi việc, gia đình ông Dương Văn Lợi cùng khoảng 10 anh em người Việt đã giúp ông mua lại chiếc tàu chuẩn bị đi Quảng Châu: Năm 83 là tôi đi, 300 cây số tới Quảng Châu,  xuống bãi biển ở Quảng Châu.

    Trốn khỏi Trung Quốc

    Đó là chuyến vượt biển đầy trắc trở, tàu thì cũ nên hết hư cái này đến hỏng cái khác. Trên đường đi, ông Lợi kể là ông thấy cả 40 thuyền lớn nhỏ đi ngang mà không chiếc nào dừng lại cho đến khi được tàu Liên Xô vớt trong một cơn bão:

    Tàu Liên Xô vớt thì tôi nói tôi người Đài Loan, đi đánh cá bị bão. Lên đó thì phải nói bằng tiếng Anh không thôi. Tàu Liên Xô cho hai người thợ máy xuống sửa, nếu sửa không được thì họ kéo mình vô bờ nhưng tôi biết vô là mình bị bể vì họ sẽ đưa qua tòa đại sứ gần nhất.

    Thế là ông Dương Văn Lợi cố thuyết phục bên tàu Liên Xô cho chiếc thuyền nhỏ của ông tiếp tục cuộc hải hành. Cuối cùng, tàu cập vào một đảo nhỏ của Philippines là Dalupiri: Liên Hiệp Quốc kêu tụi tôi là Group 14 Dalupiri, có nghĩa là 14 người lên đảo Dalupiri. Từ đảo Dalupiri, mọi người được bốc về Manila, tiếp đến chuyển thẳng vào trại tị nạn Palawan.

    Tại Palawan, ông Dương Văn Lợi xin đi định cư ở Canada. Nhưng do do thủ tục khám sức khỏe để nhập cư Canada quá nhiêu khê và quá lâu, sẵn phái đoàn Pháp chấp nhận cho đi dễ dàng và nhanh hơn, ông Dương Văn Lợi quyết định đi Pháp. Đó là năm 1985.  Mười người vượt biển trên chiếc tàu của ông còn ở lại Palawan và chỉ đến Pháp nhiều năm sau đó.

    Sau chuyến vượt thoát thành công bằng trực thăng từ phi trường Bạch Mai năm 1981, Hà Nội mở phiên xử khiếm diện, tuyên án tử hình 5 người trong nhóm gồm ông Dương Văn Lợi, em ông là sĩ quan công an Dương Văn Báu, phi công chính, phi công phụ và cơ phó. Gia đình tôi qua Pháp, em tôi là Dương Văn Báu đi sau tôi vài năm. Nó trốn từ Bắc Kinh, ra biển gặp tàu Nhật vớt và tị nạn ở Nhật Bản cách đây cũng khá lâu rồi.

    Còn hai vợ chồng Lục là phi công chánh thì ở lại Bắc Kinh và bây giờ làm ăn giàu có lắm. Anh phi công phụ tên Sơn cũng ở tại Bắc Kinh. Còn một anh cơ phó cũng trốn từ Bắc Kinh qua tị nạn ở Canada, anh Đoàn, là người Thượng mà vô dân Canada rồi. Cách đây 5 năm tôi được tin là anh về thăm gia đình, vừa xuống máy bay thì bị bắt giam tại Hà Nội, từ án tử hình xuống còn án chung thân khổ sai.

    Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi hôm nay, Hà Nội Báo Động Đỏ và cựu tù cộng sản Dương Văn Lợi, tạm ngưng ở đây.  Thanh Trúc xin hẹn quí vị tuần tới.

    Posted on 04 Sep 2012
    TOP
    back to Audio FreeViet INDEX
    ...MORE COLLECTIONS

  • CORONAVIRUS collection
  • THANK YOU VIETNAM VETERANS
  • FLAG PARADE MAY 2018
  • Candlelight Vigil July 28-2018
  • Candlelight Vigil_Spokane 2018
  • Vietnam Freedom movement
  • www.9binh.com-- Trung cộng tàn ác
  • Kỹ Thuật Biểu Tình + Biểu Ngữ
  • GIAI AO THOI SU:TS Nguyen Xuan Nghia
  • Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá!
  • VIETNAMESE HERITAGE DAY 2018
  • Proclamation 4-point, Spokane, WA 2018
  • Hữu Loan: cố thi sĩ bất khuất của Nhân Văn Giai Phẩm
  • Freedom Flag Parade Spokane 5/20/2017
  • (2) VIETNAMESE HERITAGE DAY 2017
  • Slideshow: My Nation - Dat Nuoc Toi
  • Vietnamese Heritage Day 2017, Spokane
  • PROCLAMATION+Vietnamese Heritage Day 2017
  • GS Vũ Quý Kỳ: Cuộc Bầu cử Hoa Kỳ 2016
  • Trung cộng làm cá chết, biển độc
  • Cố Gs Lưu Trung Khảo: Lạc Quan, Tin Tưởng và Hy Vọng
  • PARADE + VIETNAMESE HERITAGE DAY 2016
  • PROCLAMATION 2016 --SPOKANE
  • Trần Phong Vũ: Một chế độ bạo tàn, không tim óc
  • 25 AUDIO NHẬN ĐỊNH VÀ CHÚC TẾT 2016
  • Gs Nguyễn Ngọc Bích: Chế độ đã đến ngày tàn!
  • Gs Nguyễn Lý Tưởng: Cùng tắc biến, biến tắc thông
  • Đức Giám Mục Nguyễn Văn Long: Hãy cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi!
  • Mặc Giao: Can trường cứu Nước cứu nhà!
  • Nguyễn Tầm Thường: suy niệm & cầu nguyện
  • AUDIO Hồi Ký, Bút Ký, Bình Luận
  • Chữ và Nghĩa (Đoàn Thế Ngữ)
  • 40 Năm: Lm Phan văn Lợi nghĩ gì?
  • Gs Vũ Quý Kỳ: 30/4/75 Lesson
  • GS Nguyễn Lý Tưởng: TS Roland Jacques & Quốc Ngữ
  • THƯƠNG TIẾC VIỆT DZŨNG!
  • Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
  • Collection 2_ Sinh Hoat Ca (32)
  • Collection 1_ Sinh Hoat Ca (40)
  • 28 AUDIO Quý Tỵ 2013 từ Hoa Kỳ
  • 70 NĂM TÂN NHẠC MIỀN NAM (1930-2000)
  • Công Giáo Miền Bắc chống nhà nước VC!
  • Mãi mãi dòng thơ HOA ĐỊA NGỤC
  • Tôi Phải Sống -- Hồi ký đời tù của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
  • Tiến sĩ Nguyễn văn Lương: HẠN CHẾ DU LỊCH & GỞI TIỀN
  • TỘI ÁC KINH KHỦNG của Đảng Cộng Sản Trung Quốc!
  • Buồm cao ghi dấu can trường
  • 4 cuốn Sách Pháp viết về 30-4-1975: Pierre Darcourt, Jean Lartéguy, Olivier Todd, Vanuxem
  • VIỆT KHANG: Lòng nào làm ngơ trước NGOẠI XÂM?
  • 33 BÀI NHẬN ĐỊNH & CHÚC TẾT ĐỒNG BÀO VIỆT NAM
  • THÁI HÀ đấu tranh quyết liệt!
  • LM Nguyễn văn Khải: giáo dân xông vào nơi hiểm nguy!
  • TS Nguyễn Xuân Nghĩa: Giờ Giải Ảo + Bên Kia Màn Khói
  • Ts Phan Văn Song: Tinh thần Đại Việt giữ nước và cứu nước
  • Ts Nguyễn Đình Thắng: Muốn thay đổi, phải hành động!


    Các Đài Phát Thanh Việt Ngữ
    hướng về Việt Nam:

    » VOA
    » BBC phát thanh từ Luân Đôn
    » RFI (Radio France Internationale)
    » RFA - Radio Free Asia
    » VERITAS - Chân Lý Á Châu
    » Đài Phật Giáo Việt Nam

    Các đài phát thanh từ Hoa Kỳ:

    » Radio Bolsa
    » Saigon Radio Hải Ngoại


    « FreeVietNews.com

  •  



      
      Services | © 2008 - 2024
    (1)