GM Nguyễn Thái Hợp: Vận dụng Sức Mạnh quần chúng!
Xem các biểu ngữ tại hơn 40 giáo xứ thuộc Giáo Phận Vinh và các cuộc xuống đường tập hợp cầu nguyện và phản kháng VC đồng loạt. Các Giáo Xứ ở Vinh đồng loạt phản đối nhà nước Việt Cộng! ĐGM Nguyễn Thái Hợp: "Chúng tôi đòi hỏi công lý cho những nạn nhân vụ bạo hành" 16/07/12 5:19 PM
Lời Tòa Soạn : Khi vụ đàn áp giáo dân tại giáo điểm Con Cuông xảy ra, Giám Mục giáo phận Vinh Nguyễn Thái Hợp đang ở Âu châu. Ngay sau biến cố này, cơ quan truyền thông Công Giáo Eglises d’Asie (Các Giáo Hội Á Châu) đã phỏng vấn Đức Cha Hợp tại Paris ngày 8-9-2012. Bài phỏng vấn được phổ biến ngày hôm sau 9-7-2012.
Diễn Đàn Giáo Dân xin chuyển dịch nguyên văn bài phỏng vấn từ Pháp ngữ sang Việt ngữ để qúy độc giả và dư luận hiểu thêm về quan điểm và lập trường của vị Giám Mục giáo phận Vinh, kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (www.diendangiaodan.com)
Eglises d’Asie: Thưa Đức Cha, Cộng đồng Công Giáo Con Cuông nơi vừa xảy ra những sự kiện mà chúng ta sắp nói tới được gọi là “Giáo Điểm” (lieu religieux) trong các văn bản. Đức Cha có thể cho biết danh xưng này có nghiã gì? GM Nguyễn Thái Hợp : Tiếng này được dùng trong các nghị định ấn hành trong những năm thuộc thập kỷ 1990, trước thời gian ra đời của Sắc Lệnh về Tín Ngưỡng và Tôn Giáo. Người ta phân biệt giữa giáo xứ, giáo họ và và cộng đồng Kitô hữu chưa tạo thành một đơn vị theo giáo luật. Đại ý, danh từ này tương đương với tên mà văn học truyền giáo thuở xưa gọi là “cộng đồng Kitô hữu” (chrétienté), một cộng đồng tín hữu đang trong giai đoạn thành hình. Eglises d’Asie: Nguyên nhân của phần lớn những xung đột giữa nhà cầm quyền và các cộng đồng Công Giáo xảy ra trong thời gian vừa qua thường là vấn đề đất đai bị nhà nước xung công, hoặc là những hoạt động có tính cách xã hội chính trị của những người trẻ Công Giáo. Những nguyên nhân đó không hiện diện trong vụ Con Cuông. Vậy vì lý do gì mà nhà cầm quyền địa phương lại tung ra một cuộc đàn áp thô bạo như thế chống lại một nhóm nhỏ những tín hữu chỉ muốn cử hành thánh lễ? Lý do này có vẻ rất bí ẩn… GM Nguyễn Thái Hợp: Đúng như vậy, tất cả đều không thể giải thích. Người ta không thể hiểu những động lực sâu xa của nhà cầm quyền, cũng như không hiểu tinh thần hướng dẫn hành động này của họ. Tuy nhiên, ta có thể phỏng đoán một vài nguyên nhân. Ở Việt Nam, có những khu người ta gọi là “vùng đất anh hùng” (được coi là những địa danh nổi tiếng của thời kháng chiến cộng sản). Để bảo vệ quy chế “anh hùng” này, các nơi ấy phải tuân thủ ba hay bốn tiêu chuẩn. Một trong những tiêu chuẩn đó là sự vắng bóng của tôn giáo và những biểu hiện tôn giáo trên lãnh thổ của khu này. Trong khi đó, một cách chính xác, khu Con Cuông lại nằm ở Tây Bắc tỉnh Nghệ An, thuộc một trong những khu phải được gìn giữ và bảo vệ theo truyền thống anh hùng. Người ta có thể nghĩ rằng đó là một trong những lý do về thái độ bạo hành của nhà cầm quyền trong vụ này. Người ta cũng có thể nói tới động lực chính trị, chuyện hoàn toàn có thể xảy ra ở Việt Nam ngày nay. Từ lâu, những người Kitô giáo đã có mặt ở vùng đất Côn Cuông này. Bắt đầu từ 1970, các linh mục đã tới vùng này để cử hành thánh lễ và giúp những nhóm thiểu số. Thế là từ hai năm nay, một linh mục đã đến đó đều đặn mỗi Chúa Nhật để cử hành thánh lễ. Bốn đơn yêu cầu đã được gửi tới nhà cầm quyền để xin thiết lập một giáo điểm. Cho tới bây giờ, chúng tôi không nhận được sự trả lời chính thức nào. Nhưng người ta cho chúng tôi biết là quy chế giáo điểm không còn tồn tại mà phải thiết lập một giáo họ (paroisse annexe), một đơn xin nữa cũng vẫn không được trả lời. Chúng tôi không hiểu tại sao nhà cầm quyền lại can thiệp bằng cách ứng xử tàn bạo như vậy đối với cộng đồng Công Giáo Con Cuông. Năm ngoái, một qủa mìn đã nổ trước nhà nguyện. Đó là điều không thể chấp nhận được! Chúng tôi luôn luôn tìm cách đối thoại, nói chuyện với nhà cầm quyền và chúng tôi không hiểu tại sao họ đi tới chỗ dùng những phần tử quân đội để chống lại những công dân Công Giáo. Một số người tự hỏi tại sao các binh sĩ có sức mạnh lớn như vậy không lo bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường sa, mà lại dùng võ khí để chống lại những đồng bào Công Giáo không võ trang. Tất cả những điều đó thật khó hiểu.
Eglises d’Asie: Trước việc bùng nổ của bạo lực như vậy, thái độ của người Công Giáo trong giáo phận của Đức Cha hiện nay ra sao? GM Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi muốn sống trong việc đối thoại với nhà cầm quyền. Chúng tôi không có ý định dùng vụ Con Cuông để áp đặt những đòi hỏi hay vu khống Đảng và chính phủ. Nhưng vụ xảy ra ngày 1 tháng 7 qúa đặc biệt, khiến đa số người Công Giáo không thể khoan nhượng. Nhà cầm quyền đã đi qúa xa! Như người ta thường nói tại xứ tôi, khi vượt qúa một số ranh giới, người ta phải phản ứng. Sự kiên nhẫn là một đức tính Công Giáo, một đức tính nhân loại. Nhưng giống như tất cả những gì mang tính nhân loại, nó có những giới hạn mà người ta không thể ngang nhiên vượt qua. Đó là cảm nghĩ của giáo dân trong giáo phận của chúng tôi. Điều cốt yếu là sự đoàn kết với các anh chị em công Giáo trong một hoàn cảnh khó khăn. Chúng tôi không phải chỉ muốn phản đối, chúng tôi còn muốn bầy tỏ sự đoàn kết này và đòi hỏi công lý cho những nạn nhân của việc bạo hành này. Eglises d’Asie: Vụ Con Cuông có phải là một vụ hoàn toàn riêng rẽ, trong giáo phận của Đức Cha, những việc cùng loại này có xảy ra ở những vùng khác không? GM Nguyễn Thái Hợp: Trong giáo phận của tôi, có ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Cách đây hai năm, ở làng Tam Tòa thuộc tỉnh Quảng Bình cũng xảy ra những việc bạo hành giống như vụ Con Cuông hiện nay. Tôi không hiểu tại sao bạo hành bây giờ lại chuyển tới tỉnh Nghệ An. Đó là những vụ không thể khoan nhượng ở Con Cuông. May thay, trong hai tỉnh khác, hiện không có tranh chấp tương tự. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái, một giới chức cao cấp của chính phủ từ Hà Nội đến chuyển cho chúng tôi lời chúc mừng Giáng Sinh và chính giới chức này đã có lời chúc tụng chúng tôi. Ông ta đã hỏi tôi: “Tình trạng giáo phận Vinh hiện ra sao?”. Tôi trả lời ông ấy là trong giáo phận của tôi, có ba tỉnh mà mỗi tỉnh có tính cách đặc biệt. Không thể so sánh tỉnh này với tỉnh kia, mỗi tỉnh có mầu sắc, ánh sáng và sự độc đáo riêng. Nhưng nếu phải lấy một sự lựa chọn, tôi thích mầu sắc của các tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình hơn. Sau đó, một công chức của tỉnh Nghệ An đã hỏi tôi “Tại sao không chọn Nghệ An?”. Tôi trả lời: “Trong giáo phận của tôi, có ba tỉnh. Tôi ưa hai tỉnh hơn, như vậy là có thể tự hiểu!” Eglises d’Asie: Đức Cha là chủ tịch của Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình do Hội Đồng Giám Mục VN thành lập cách đây vừa đúng một năm rưỡi. Chắc chắn khó có thể lập bảng tổng kết thành tích hoạt động của Ủy Ban. Nhưng xin hỏi có sự cạnh tranh hay bất đồng nào giữa học thuyết xã hội của Giáo Hội và chủ thuyết đang được áp dụng tại Việt Nam? GM Nguyễn Thái Hợp: Đúng vậy, có qúa ít thời gian kể từ khi Ủy Ban chúng tôi nhận sứ mệnh. Trong khoảng một năm rưỡi, chúng tôi không làm được nhiều việc vì những giới hạn về nhân sự, nhưng cũng vì tình hình xã hội chính trị không cho phép chúng tôi làm những gì chúng tôi đã nghĩ và muốn làm. Chúng tôi dự tính phổ biến và áp dụng học thuyết xã hội của Giáo Hội như một phương cách phúc âm hóa thế giới. Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô Đệ Nhị đã nói: “Học thuyết xã hội của Giáo Hội không phải là con đường thứ ba giữa chủ thuyết tư bản và chủ thuyết Mác-xít”. Đức Giáo Hoàng Bênêdictô 16 cũng nói thêm rằng Giáo Hội không thay thế quốc gia trong phận sự của quốc gia, nhưng Giáo Hội có thể đóng góp và đối thoại với chính phủ trong mục đích phục vụ con người. Bởi thế, chúng ta phải phúc âm hóa và phục vụ con người trong thời đại của chúng ta. Đức Giáo Hoàng Bênêdictô 16 cũng yêu cầu các giám mục Việt Nam cộng tác và đối thoại thẳng thắn với nhà nước. Nhưng ơn gọi phúc âm của chúng ta còn đòi hỏi chúng ta phải đặt ưu tiên cho những gì phù hợp với công lý, cho những gì hữu ích cho việc phục vụ xứ sở và phù hợp với những quyền của con người. Đó là lý do tại sao chúng tôi chủ trương đối thoại, một sự đối thoại hữu ích nhưng không giản dị và dễ dàng. Eglises d’Asie: Văn bản mới nhất của ủy ban của Đức Cha có tựa đề “Những suy nghĩ về tình hình tổng quát của đất nước”. Bản văn đó nói tới sự tiến trỉển tích cực của đất nước từ một số năm qua, đặc biệt về phương diện kinh tế. Nhưng bản văn cũng vạch ra nhiều khía cạnh tiêu cực của xã hội hiện tại. Điều đó có phải là qúa bi quan? GM Nguyễn Thái Hợp: Cám ơn nhận xét của ông. Một số nhận định hẳn nhiên có chút bi quan dù rằng bản thân tôi vốn lạc quan một cách chừng mực. Nhưng phải rõ ràng. Hãy nhìn lịch sử Việt Nam của 40 năm qua. Từ 1975 đến 1990, tình hình rất khó khăn, đặc biệt trong những năm 1980. Trong giai đoạn đó, có rất nhiều khó khăn và đặc biệt cho những người Công Giáo. Rồi trong giai đoạn từ 1990 tới 2008-2009, tình hình đã thay đổi. Chính sách “đổi mới” từ từ thắng thế và đã đổi mới xứ sở trong tất cả mọi lãnh vực. Điều đó không thể chối cãi. Nhưng trong những năm vừa qua, có một sự trì trệ về tiến bộ rất rõ. Xã hội dân sự và xã hội chính trị cũng có sự thụt lùi. Không phải tôi bi quan, nhưng tình hình trở nên xấu. Tình trạng xã hội chính trị rất đáng e ngại. Tôi không phải là người duy nhất nghĩ như vậy. Người ta nghe cùng một tiếng chuông đồng hồ ngay nơi những người trí thức cộng sản, ở cả Quốc Hội nơi có nhiều lời tuyên bố quan trọng về vấn đề này đã được nói lên. Vì thế, qua báo cáo này, ủy ban của chúng tôi muốn cho mọi người nghe lời phê bình, nhưng là một lời phê bình xây dựng, muốn nhìn thấy đất nước đi trên đường phát triển đích thực. Sự phát triển kinh tế phải dính liền với phát triển xã hội và nhân bản. Eglises d’Asie: Hiện nay ở Việt Nam, cuộc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên toàn thể lãnh thổ và chống lại ý muốn bành trướng của nước láng giềng lớn phương Bắc đang được thực hiện bởi nhiều người, kể cả những người Công Giáo. Chính Đức Cha đã phát biểu về vấn đề này nhiều lần. Đức Cha có nghĩ cuộc đấu tranh này là một phần trong sứ mệnh mục tử của Đước Cha không? GM Nguyễn Thái Hợp: Công Đồng Vatican II, trong hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, đã tuyên bố: “Những niềm vui và hy vọng, những buồn sầu và lo âu của con người trong thời đại này, những người nghèo và nhất là những người đau khổ, cũng là niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và sự lo âu của những môn đệ Chúa Kitô, và thực sự không có chút nhân bản nào nếu không tìm thấy một tiếng vọng trong trái tim của các môn đồ”. Chúng tôi vừa là môn đệ Chúa Kitô vừ là những đứa con của một dân tộc, chúng tôi là người Việt Nam và là Kitô hữu. Việt Nam là một dân tộc mà Thiên Chúa đã cho chúng tôi để trở nên thực sự là người, để trở thành công dân và Kitô hữu ở đó. Vì vậy những niềm vui và những nỗi buồn của đất nước chúng tôi cũng là những niềm vui và những nỗi buồn của những Kitô hữu chúng tôi. Cũng vậy, cùng với những công dân khác, người Công Giáo, người không Công Giáo và ngay cả những người Mác- xít, chúng tôi muốn bầy tỏ mối âu lo của chúng tôi liên quan tới tình hình rất nguy hiểm cho số phận của đất nước. Chính trong tinh thần ấy mà câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình ở Sài Gòn đã tổ chức hai cuộc hội thảo về vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Cuộc hội thảo đầu tiên đã gặp rất nhiều khó khăn nên không được thực hiện. Những người tham dự hội thảo không những là Công Giáo mà còn là những người không Công Giáo, những người Mác-xít hay không Mác-xít. Dù chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức cuộc hội thảo này, vẫn có một cơ quan chính phủ cũng đã tài trợ cho việc in những bài phát biểu. Cuộc hội thảo thứ hai có chủ đề “Công lý và hòa bình ở Biển Đông”. Buồn thay, nó cũng không được diễn ra, nhưng tôi nghĩ có thể in những bài phát biểu đã được dự trù . Cuộc tranh đấu này đối với chúng tôi là một bổn phận đối với dân tộc, và đối với tổ tiên chúng tôi. Chúng tôi thi hành bổn phận này với những nhà trí thức của đất nước, với những người Công Giáo và không Công Giáo, với những người Cộng sản và không Cộng sản. Đó là bổn phận của mọi người Việt Nam trước những khó khăn và đe dọa đè nặng lên nền độc lập của đất nước chúng tôi Eglises d’Asie: Trong báo cáo của Uỷ Ban Công Lý và Hòa Bình về tình hình chung của đất nước có vấn đề tự do tôn giáo. Nhiều văn bản lập pháp về vấn đề này đã được kể ra trong báo cáo và đi đến kết luận – tôi khôi hài hóa một chút – là tự do tôn giáo không thể thực sự tồn tại khi có qúa nhiều luật lệ về vấn đề này. GM Nguyễn Thái Hợp: Phải nhìn nhận rằng chính phủ đã làm nhiều điều cho Giáo Hội và cho các tôn giáo nói chung. Nếu người ta so sánh tình hình Giáo Hội Việt Nam ít lâu sau 1975 và tình hình hiện nay, người ta có thể xác nhận đã có nhiều tiến bộ. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức toàn cầu về thương mại, đã trở thành hội viên của nhiều định chế quốc tế và từ nay phải thi hành những công ước quốc tế về nhân quyền. Điều hiện nay còn phải làm là hoàn tất việc bình thường hóa tình trạng liên quan đến tôn giáo. Chính quyền hiện đang sửa soạn một nghị định mới về tôn giáo. Nhưng nếu trong tình trạng bình thường, người ta không cần tới nghị định này. Hiện nay đã có đủ: phải đối xử với những người Công Giáo, những người không Công Giáo, những Phật tử và tất cả mọi người khác như những công dân! Chúng ta đã có một bộ Dân Luật và mọi người phải được đối xử theo luật lệ. Tôi không nói là phải làm ngay mọi sự. Nhưng chúng ta phải hướng về việc thực hiện tình trạng đó. Nếu chúng ta đạt tới, lúc đó chúng ta mới có thể nói đã có tự do tôn giáo đích thực. Eglises d’Asie: Trong những năm 1978-79, Tổng Giám Mục Huế, Đức Cha Nguyễn Kim Điền, đã tuyên bố trong một buổi họp công cộng mà Đức Cha được triệu đến: “Hôm nay, những người Công Giáo là những công dân hạng hai…”. Tình trạng này hiện đã thay đổi hay chưa? GM Nguyễn Thái Hợp: Nếu kể lại tình hình vào thời Đức Cha Điền sau 1975, người ta có thể xác nhận rằng đã có những thay đổi. Hiện nay, những người Công Giáo có thể vào đại học và làm nhiều nghề. Nhưng một số chức vụ vẫn còn được dành riêng cho đảng viên. Trong cuộc sống hàng ngày, còn nhiều điều cần phải thay đổi. Về phiá Công Giáo cũng như về phía Cộng sản, về phiá Giáo hội cũng như về phía chính phủ, việc tốt đã được làm nhưng cần phải được làm tiếp. Đối với mọi người Việt Nam, vô thần cũng như có tín ngưỡng, Phật Giáo cũng như Tin Lành, người thiểu số cũng như người Công Giáo, phải tạo nên một xã hội nhân bản và tân tiến. Chúng tôi phải tiếp tục công việc của chúng tôi để Việt Nam thực sự trở thành một xứ sở cho tất cả mọi công dân không có sự phân biệt nào. (Bản dịch Việt ngữ do Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân) www.diendangiaodan.com
CÁC GIÁM MỤC CÔNG GIÁO VIỆT NAM NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 (SỬA ĐỔI NĂM 2013) Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã công bố bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (sau đây gọi tắt là Dự thảo) để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2.1.2013 đến ngày 31.3.2013. Chúng tôi tán thành việc làm này, vì Hiến pháp của một quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân, do ý thức trách nhiệm của người dân và để phục vụ mọi người dân, không loại trừ ai. Ý thức trách nhiệm công dân, nhân danh Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ban Thường vụ kính gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và nhân dân cả nước một số nhận định và góp ý. I. Quyền con người
Bản Dự thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (10.12.1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con người. Vấn đề là làm thế nào để những quyền ấy được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật trong thực tế?
Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá con người, do đó là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng. Phổ quát vì tất cả mọi người, thuộc mọi thời và mọi nơi, đều được hưởng những quyền đó. Bất khả xâm phạm vì xâm phạm là tước đoạt phẩm giá làm người. Bất khả nhượng vì không ai được phép tước đoạt những quyền đó của người khác.
Quyền bính chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người, chứ không phải để ban phát cách tùy tiện. Do đó, để quyền con người thật sự được “Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo hiến pháp và pháp luật” (điều 15), chúng tôi thấy cần làm sáng tỏ một số điều.
Dự thảo khẳng định quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật (điều 43), quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo (điều 25). Tuy nhiên, ngay từ đầu, Dự thảo lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (điều 4).
Như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tư do ngôn luận và sáng tạo văn học, nghệ thuật, bởi lẽ tư tưởng đã bị đóng khung trong một chủ thuyết rồi? Tương tự như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ chủ nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa vô thần?
Phải chăng những quyền này chỉ là những ân huệ được ban cho nhân dân tùy lúc tùy nơi, chứ không phải là quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, và bất khã nhượng? Hiến pháp cần phải xóa bỏ những mâu thuẫn và bất hợp lý này, thì mới có sức thuyết phục người dân và thu phục lòng dân.
Trong thực tế, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam. Ðây là một trong những lý do lớn, dẫn đến tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuật.
Nếu cần một nền tảng, chúng tôi thiết nghĩ đó phải là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc Việt Nam, chứ không phải một hệ ý thức nào khác. Truyền thống văn hóa ấy đã được hình thành trãi qua nhiều thế kỷ, giúp dân tộc Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước, kiến tạo lối sống đầy tính nhân văn.
Nền văn hóa đó chính là nền tảng cho đời sống xã hội của dân tộc Việt Nam, những tư tưởng mới có thể và cần được đón nhận để bổ túc cho phong phú, nhưng không thể thay thế. Có như vậy mới mong giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc giữa những thay đổi mau chóng của thời đại toàn cầu hóa ngày nay.
Do đó, chúng tôi đề nghị:
l. Hiến pháp cần xác định rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền. Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá làm người, và vì thế, là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng.
2 . Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam.
3 . Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi người đều có quyền sống. Không ai được phép tước đoạt sự sống của người khác, từ khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ sự sống con người. Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn là không làm tổn hại đến sự sống của người khác.
4 . Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình.
5 . Nêu rõ quyền tự do tôn giáo (đối chiếu điều 25 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao hàm việc tự do theo hay không theo một tôn giáo nào, tự do thực hành các nghi lễ tôn giáo, cá nhân hoặc tập thể. Không tôn giáo nào hoặc chủ thuyết nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam.
Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo như: đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập... Các tổ chức tôn giáo có quyền tự do hoạt động xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế...
H. Quyền làm chủ của nhân dân
Quyền bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào.
Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế việc tự do ứng cử của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội dân chủ, văn minh và lành mạnh. Ðồng thời việc bỏ phiếu công khai, khách quan và công bằng, là đòi hỏi cần thiết để người dân có được những đại diện mà họ tín nhiệm. Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những đại diện họ đã bầu, và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó.
Do đó, chúng tôi đề nghị:
l . Hiến pháp cần phải làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân, không chỉ bằng một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được thể hiện trong những điều khoản cụ thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong thực tế. Bản Dự thảo khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Ðiều 2). Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí thức là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Thực tế đó cho thấy khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.
2. Ðể tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phải chính trị nào (X. điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người họ tín nhiệm qua việc bầu chọn. Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối cùng không ai chịu trách nhiệm cả.
3. Hiến pháp hiện hành chỉ công nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận quyền sở hữu đất của công dân. Ðiều này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất công nghiêm trọng. Vì thế, Hiến pháp mới cần công nhận quyền sở hữu đất đai của công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế giới.
4. Hiến pháp phải tôn trọng quyền tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của mọi công dân, không phân biệt thành phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo...
III. Thi hành quyền bính chính trị
Quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðể những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mổi bên và vì công ích của toàn xã hội. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm qua, đã không có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, đạo đức. Cuối cùng, người dân nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và Việt Nam, cho đến nay vẫn bị xem là một nước kém phát triển.
Nguyên nhân sâu xa là không có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội dung của Hiến pháp 1992, và Dự thảo vẫn tiếp tục đường lối như thế.
Một đàng, điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”; đàng khác, điều 4 lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh đạo ai? Phải chăng Quốc hội chỉ là công cụ của đảng cầm quyền? Nếu như thế, việc người dân đi bầu các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự do hay chỉ là thứ dân chủ hình thức?
Bản Dự thảo cũng dành nhiều chương dài để nói về Quốc Hội (điều 74-90), về Chủ tịch nước (điều 91-98), về Chính phủ và Thủ tướng (điều 99-106). Không có chương nào và điều nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền. Ðang khi đó, thực tế là Tổng bí thư nắm quyền hành cao nhất vì cũng theo Dự thảo, đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4)! Như thế phải chăng đảng ở trên luật pháp và ngoài luật pháp, chứ không lệ thuộc luật pháp? Nếu đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và xã hội, thì còn cần gì Quốc hội, cần gì đến Tòa án!
Những phân tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và tính bất hợp lý ngay trong nội dung Hiến pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình trạng bất hợp lý trong thực tế cuộc sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn đến bất ổn xã hội, kìm hãm sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Do đó, chúng tôi đề nghị:
l . Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phải chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào.
2 . Xác định tính độc lập của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; cung cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những quyền này cách độc lập và hiệu quả.
3. Luật hóa sự kiểm soát của nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những quy định cụ thể.
Kết luận
Những nhận định và góp ý của chúng tôi chỉ nhằm mục đích góp phần xây dựng Hiến pháp cho hợp lý và hợp lòng dân. Chúng tôi ước mong mọi người dân Việt Nam tích cực góp phần vào việc điều chỉnh Hiến pháp, phục vụ sự phát triển toàn diện và bền vững của dân tộc Việt Nam. Tòa Tổng Giám mục Hà Nội ngày 01 năm 03 năm 2013 TM. Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam Tổng thư ký Chủ tịch (đã ký) (đã ký) Cosma Hoàng Văn Ðạt Phêrô Nguyễn Văn Nhơn Giám mục Bắc Ninh Tổng Giám mục Hà Nội TÒA TỔNG GIÁM MỤC VINH LÊN ÁN HÀNH ÐỘNG ÐÀN ÁP TÔN GIÁO TẠI NGHỆ AN
HÀ NỘI.-Vừa bị khủng bố, đánh đập, vừa bị vu khống, phân biệt đối xử… đó là những gì linh mục và các giáo dân của Giáo điểm Con Cuông, thuộc xã Yên Khê, huyện Con Cuông phải hứng chịu trong nhiều ngày qua mà đỉnh điểm là ngày Chủ nhật 1 tháng 7 năm 2012. Tòa Giám mục Vinh đã mạnh mẽ lên án hành động đàn áp tôn giáo này của nhà cầm quyền địa phương. Theo thông báo của Tòa Giám mục Vinh công bố ngày 4 tháng 7, trong những ngày qua nhà cầm quyền đã liên tục cho người đe doạ, ngăn cản khủng bố linh mục và giáo dân và theo Tòa Giám mục Vinh, sự kiện xảy ra ra ngày Chủ nhật 1 tháng 7 là cao trào và là kết quả những mưu tính lâu dài, được dàn dựng công phu kỹ lưỡng của các thế lực đen tối. Theo tường thuật của Giáo phận Vinh Online ngày 3 tháng 7 thì trong ngày Chủ nhật hôm đó, công an, dân phòng và một nhóm côn đồ đã kéo đến hành hung các nữ tu, giáo dân, thậm chí đánh cả linh mục Nguyễn Ðình Thục, khi vị linh mục này chuẩn bị cử hành thánh lễ. Nhiều giáo đã bị đánh trọng thương, trong đó có một phụ nữ bị đánh vào đầu gây chấn thương sọ não phải đưa đi Hà Nội cấp cứu. Vẫn theo bản thông cáo trầm trọng nhất là đám người nói trên còn đập nát cả tượng Ðức Mẹ. Nhà nguyện bị chiếm giữ, linh mục Nguyễn Ðình Thục đã phải làm lễ ở ngoài sân, giáo dân thì hoảng sợ vì thấy cảnh sát cơ động 113 và một lực lượng quân đội với súng ống sẳn sàng chĩa vào nhà nguyện. Ðể thể hiện sự phản đối, Tòa giám mục Vinh ngày 4 tháng 7 đã lêu gọi mọi linh mục, tu sĩ, giáo dân trong giáo phận thắp nến cầu nguyện cho giáo dân tại Con Cuông, đồng thời kêu gọi các linh mục treo biểu ngữ tại giáo xứ với nội dung Phản đối hành vi phạm thánh và đánh đập linh mục, giáo dân của nhà cầm quyền Con Cuông. Cũng trong ngày 4 tháng 7, Tòa Giám mục Vinh đã gởi một công văn đến nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An, để lên án mạnh mẽ vụ đàn áp linh mục và giáo dân tại Giáo điểm Con Cuông. Bức công văn khẳng định việc linh mục và giáo dân dâng lễ cầu nguyện tại xã Yên Khê, huyện Con Cuông là việc chính đáng, phù hợp với luật pháp Việt Nam và công ước quốc tế. Tuy nhiên, tờ Nghệ An điện tử đến hôm qua vẫn tiếp tục đăng bài khẳng định là chính các linh mục và giáo dân Giáo xứ Quan Lãng đã kéo đến gây rối, hành hung người dân xã Yên Khê và cho rằng các linh mục đã truyền đạo trái phép, vì đã làm lễ tại một nhà riêng mà chưa có sự đồng ý của nhà cầm quyền điạ phương.(SBTN) The Suffering Church in Vietnam Bishop Paul Nguyen Thai Hop of Vinh on an Attack Against Catholics at Mass ROME, JULY 12, 2012 (Zenit.org).- After the incidents in the Catholic community of Con Cuong, Bishop Paul Nguyen Thai Hop of the diocese of Vinh and president of the Justice and Peace Commission of the Episcopal Conference of Vietnam, gave an interview in Paris to the Eglises d’Asie agency to comment on the incidents and other subjects. On July 1 what Asia News described as “a group of thugs linked to the Vietnam Patriotic Front,” attacked a group of Catholics gathered in a house of prayer in Con Cuong district - Nghe An province, Vinh Diocese, as they gathered to celebrate Mass on Sunday. It was just the latest in a series of attacks that started last November. The bishop spoke to the agency July 8. Q: What is the reason for the unleashing by the local authorities of such a wave of violence against a small group of believers who wished to celebrate the Eucharist? Bishop Nguyen Thai Hop: It’s true that all this seems inexplicable. One cannot understand the profound reasons of the authorities or the spirit that has guided their action. However, certain reasons can be put forth. In Vietnam there are districts called “heroic districts” [regarded as places of “Communist resistance”]. To preserve this status of “heroism,” they must follow three or four criteria. One of the criteria is the absence of religion and religious practices in the district’s territory. In fact, the district of Con Cuong, situated in the northeast of the province of Nghe An, forms part of this category of districts which have the obligation to perpetuate and preserve the tradition of heroism. One can think that this is one of the reasons for the brutality of the behavior of the authorities in this matter. One can also speak of a motivation of a political order, which would be plausible in today’s Vietnam. Christians have been present in the district of Con Cuong for a long time. Beginning in 1970, priests came to the region to celebrate Mass and to help the minorities. A priest goes regularly to the place on Sunday to celebrate Mass. We don’t understand why the authorities have intervened with such brutal behavior against the Catholic community of Con Cuong. Last year a mine exploded in front of the chapel. It was a criminal act. We protested but there was no reaction from the civil or police authorities. We want to live in dialogue with the authorities. We have no intention to use the matter of Con Cuong to impose our claims or slander the Party and the government. But the incident of July 1 is exceptional; it is intolerable for the majority of Catholics. The authorities have gone too far! As we say among ourselves, when certain limits are exceeded, we must react. Patience is a Catholic virtue, a human virtue. However, as everything that is human, it has its limits which cannot be exceeded with impunity. Such is the feeling of Catholics of our diocese. In a difficult situation what takes priority is solidarity with our Catholic brothers and sisters in our diocese. We don’t’ just want to protest, we also want to express this solidarity and ask for justice for the victims of this brutality. Q: Is the incident in Con Cuong completely isolated or are there in your diocese regions where incidents of the same sort could take place? Bishop Nguyen Thai Hop: There are three provinces in my diocese: Nghe An, Ha Tinh and Quang Binh. Two years ago, in Quang Binh, in the village of Tam Toa, there were violent incidents such as those in Cong Cuong. The violence, I know not why, has now spread to the province of Nghe An. There the intolerable incidents of Con Cuong have taken place. Fortunately, in the other provinces, there are no similar conflicts for the time being. In the last Christmas celebrations, a top government official came from Hanoi to wish us a Happy Christmas from the government and to express his own good wishes. Q: You preside over the Justice and Peace Commission created by the Episcopal Conference of Vietnam a year and a half ago. Bishop Nguyen Thai Hop: Indeed, our Commission began its mission a short time ago. In the space of a year and a half, we haven’t done many things, because of our personal limitations but also because the socio-political situation did not allow us to do what we thought and wished to do. We regard the spread and implementation of the Social Doctrine of the Church as a way of evangelizing the world. Pope John Pal II said: “The Social Doctrine of the Church is not the third way between capitalism on one hand and Marxism on the other.” Pope Benedict XVI has added that the Church does not replace the State in its functions, but that she could make her contribution and dialogue with the government with the objective of serving men. We must evangelize and serve the men of our time. Pope Benedict XVI has asked the Vietnamese bishops to collaborate and dialogue frankly with the State. However, our evangelical vocation obliges us to privilege what is in keeping with truth, what is useful to the service of the country and in agreement with human rights. That is why we are partisans of dialogue, a dialogue that is very interesting but that is far from being simple and easy. Q: The latest publication of your Commission is a report entitled “Considerations on the General Situation of the Country.” You mention the positive evolution of the country over the past few years especially on the economic plane. However, you stress numerous negative aspects of present-day society. Bishop Nguyen Thai Hop: Let’s look at the history of Vietnam over the last 40 years. From 1975 to 1990, the situation was difficult, especially in the 80s. At that time, there were many difficulties, especially for Catholics. Then, in the period from 1990 to 2008-2009, the situation changed. The policy of doi moi (change) little by little gained ground and renewed the country in all areas. This is undeniable. However, in these last years there has been a clear slowing down of progress. The civil society and the political society have also experienced a slump. It’s not that I’m a pessimist, but that the situation is bad. The socio-political situation is worrying. I’m not the only one who thinks this. That is why, for this report our Commission wished to make the voice of criticism heard, but a constructive criticism, desirous of seeing the country undertake the path of real development. Economic development must be linked to social and human development. Q: Today in Vietnam the battle for safeguarding Vietnamese sovereignty is supported by many people including the Catholics. You yourself have spoken about this several times. Do you think that this battle is part of your mission as a pastor? Bishop Nguyen Thai Hop: In the pastoral Constitution on the Church in the world of its time, Vatican Council II declared: “The joys and hopes, the sadnesses and anxieties of men of this time, of the poor and of all those who suffer, are also the joys and hopes, the sadnesses and anxieties of the disciples of Christ, and there is nothing really human that does not find an echo in his heart.” We are at the same time disciples of Christ and children of a nation; we are Vietnamese and Christians. Vietnam is the nation that God has given us to be really human, to be in it a citizen and a Christian. Hence, with the other citizens, Catholics, non-Catholics and also Marxists, we want to manifest our concern regarding the very dangerous situation for the country’s destiny. Q: The issue of religious liberty is in the report of the Justice and Peace Commission on the general situation of the country. Bishop Nguyen Thai Hop: We must acknowledge that the government has done much, both in favor of the Church as well as in favor of religion in general. If a comparison is made between the situation of the Church in Vietnam shortly after 1975 and the one that exists today, we can see that there has been much progress. Vietnam has entered the World Trade Organization, it has become a member of numerous international institutions, and is now obliged to implement international conventions on human rights. What is left is to arrive at the normalization of the situation in regard to religion. Currently a new decree on religion is being prepared. However, if the situation were normal, there would be no need for this decree. It is necessary to treat Catholics, non-Catholics, Buddhists and all others as citizens! We already have a civil code and everybody must be treated according to the law. I don’t say that this can be done all at once. But we must tend to this kind of situation. If we succeed, then we will be able to say that there is real religious liberty. [Translation by ZENIT] Tháng 5, 2012 Giáo hội Công giáo lên tiếng về tình hình Việt Nam hiện nay
(RFI) Theo Ủy Ban Công Lý và Hoà bình, các vụ Tiên Lãng, Hải Phòng và Văn Giang buộc Nhà nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề
Theo Ủy ban Công lý và Hoà bình, các vụ Tiên Lãng, Hải Phòng và Văn Giang buộc Nhà nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề
Thanh Phương (RFI)
Ngày 15/05/2012 vừa qua, Ủy Ban Công Lý và Hoà bình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã công bố một văn kiện tựa đề « Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay ». Nhận định chung của Ủy ban là nền kinh tế Việt Nam đang « mất định hướng, thiếu tính bền vững và nhân bản » bởi vì « đổi mới kinh tế không song hành với đổi mới chính trị ».
Vào năm 2008, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã từng công bố «Quan điểm về một số vấn đề trong hoàn cảnh Việt Nam », chủ yếu nêu lên tình trạng khiếu kiện đất đai kéo dài và xu hướng sử dụng bạo lực, để giải quyết tranh chấp đất đai giữa Nhà nước với Giáo hội. Lúc đó, Hội Đồng Giám mục chỉ đề nghị sửa đổi Luật đất đai theo hướng công nhận quyền tư hữu của người dân, cũng như yêu cầu báo chí tôn trọng sự thật, không bóp méo hoặc cắt xén thông tin như trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm Sứ cũ.
Lần này, trong bản « Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay », Ủy ban Công Lý và Hoà bình đưa ra một cái nhìn toàn hiện hơn về đất nước, từ kinh tế, xã hội, pháp luật, cho đến chủ quyền quốc gia, môi trường, giáo dục y tế, tôn giáo và vai trò của Trí thức.
Về kinh tế, Ủy Ban nhận định là « định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc quyền và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường». Trong khi đó, Luật đất đai hiện hành, «vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền » và là nguyên nhân của khoảng 80% các khiếu kiện trong nước.
Cho nên, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình đề nghị cấp tốc sửa đổi Luật đất đai để người dân được quyền sở hữu đất, và hạn chế tối đa quyền thu hồi đất của các cấp chính quyền.
Về xã hội, Ủy ban nhắc lại hai « tật xấu » đã được Hội đồng Giám Mục Việt Nam cảnh báo từ năm 2008, đó là gian dối và bạo lực. Theo Ủy Ban, dư luận đang bực bội vì hiện tượng « lạ lùng » là tại một số nơi, cơ quan công quyền lại sử dụng bạo lực phi pháp, để giải quyết các khiếu kiện dân sự. Uỷ Ban cho rằng : « Vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng, và Văn Giang, Hưng Yên, gây xúc động mạnh mẽ trên tất cả những người Việt Nam có tâm huyết, buộc Nhà Nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề, mà cốt yếu là sửa đổi Luật đất đai về mặt hạn điền, thời hạn sử dụng đất, và giá đền bù… nếu chưa đi đến chỗ nhìn nhận quyền tư hữu chính đáng của công dân».
Trong lĩnh vực pháp luật, Uỷ Ban đặc biệt đề cập đến việc giam giữ người không qua xét xử, được che đậy dưới từ ngữ “đưa vào cơ sở giáo dục” có thời hạn, và áp dụng cho những người bày tỏ sự bất đồng chính kiến (như trường hợp của Bùi Thị Minh Hằng). Đối với Uỷ Ban, đây là một hình thức « vi phạm quyền cơ bản của con người », một biện pháp vốn đã được thực dân Pháp sử dụng ở nước ta.
Bên cạnh đó, Ủy Ban chỉ trích việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu nước, phản đối hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc. Theo nhận định của Ủy Ban, thái độ « lập lờ, thiếu nhất quán » của các nhà lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới, và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông, đang gây bất bình trong dư luận.
Cũng theo Uỷ Ban Công Lý và Hòa Bình, vai trò của những trí thức có tài và có tâm huyết chưa được coi trọng. Vai trò của xã hội dân sự cũng chưa được nhìn nhận. Trong lúc Nhà nước kêu gọi « xã hội hóa » giáo dục và y tế, Uỷ Ban kêu gọi tạo điều kiện để các Tôn Giáo trong nước được tham gia trực tiếp vào hai lĩnh vực này.
Vấn đề là theo Ủy Ban, quy định pháp luật liên quan đến các tôn giáo « vẫn còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được nguyện vọng của các tín đồ, cụ thể nhất là về tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo ». Cho nên, câu hỏi mà Uỷ Ban đặt ra là « bao giờ các công dân có tôn giáo được đối xử bình đẳng với các công dân khác, theo Hiến pháp và Dân luật, mà không cần đến một Pháp Lệnh Tín Ngưỡng tôn giáo nữa? »
Dầu sao, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình nhắc lại rằng Giáo Hội không hề muốn thay thế chính quyền, mà chỉ mong là « trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của Đất Nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân ».
Suy tư của nhà văn Trần Phong Vũ về tình hình Công Giáo ở quê nhà, về nỗ lực vận động cho Công Lý và Hòa Bình của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, về chuyến công du của Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, đương kim Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình. Bài tham luận của nhà văn Trần Phong Vũ trên Diễn Đàn Paltalk ngày 14.8.2011 20110814_NvTPVu_ThamLuan.mp3 Trả lời câu hỏi, thảo luận, góp ý 20110814_NvTPVu_HoiDap.mp3
Ký Giả Dương Phục phỏng vấn ÐỨC GIÁM MỤC PHAOLÔ NGUYỄN THÁI HỢPKý giả Dương Phục của đài phát thanh Radio Saigon Houston, phát đi trên làn sóng điện trung bình 900kHz từ thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ, đã có cuộc phỏng vấn Ðức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp trong cuộc Hội Thoại ngày 29 tháng Sáu-2011 vừa qua.
Cảm thấy qua cuộc hội thoại này, Ðức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã trình bày nhiều điều mà nhiều người muốn nghe nên chúng tôi xin phép đài Radio Saigon Houston phổ biến tại đây:
Quý vị muốn nghe thì bấm link bên dưới: http://www.freevietnews.com/audio/DuongPhuc_pv_DcNguyenThaiHop.m3u
Quý vị muốn download thì bấm link dưới đây: http://www.freevietnews.com/audio/DuongPhuc_pv_DcNguyenThaiHop.mp3 [source: http://www.radiosaigonhouston.com/] (bản đánh máy của FreeVietNews)
KÝ GIẢ DƯƠNG PHỤC PHỎNG VẤN ÐỨC GIÁM MỤC PHAOLÔ NGUYỄN THÁI HỢP Ký giả Dương Phục của đài phát thanh Radio Saigon Houston, phát đi trên làn sóng điện trung bình 900kHz từ thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ, đã có cuộc phỏng vấn Ðức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp trong cuộc Hội Thoại ngày 29 tháng Sáu-2011 vừa qua. Ký giả Dương Phục: Thưa quý thính giả, trong chương trình phỏng vấn hội thoại trưa nay, mời quý thính giả theo dõi buổi hội thoại của chúng tôi với Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, là giám mục giáo phận Vinh, cũng là chủ tịch Ủy Ban Công Lý Hòa Bình trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đang có mặt trong phòng vi âm. Xin kính chào Đức Giám Mục và xin Đức Cha gởi lời chào thính giả đang nghe đài ở khắp nơi. Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Kính chào anh Dương Phục cũng như tất cả quý thính giả đài Radio Saigon. Dương Phục: Trước hết xin được chào mừng Đức Cha đến thăm Hoa Kỳ cũng như hôm Đức Cha ghé thăm đài Saigon 900, và để dành cho đài buổi nói chuyện về tình hình nói chung ở Việt Nam cũng như một vài nhận định của Đức Cha, đối với Giáo Hội tại quê nhà cũng như Giáo Hội tại Hoa Kỳ. Thưa Đức Cha, xin Đức Cha cho một vài nét về hoạt động của Giáo Phận Vinh cũng như Giáo Hội tại quê nhà, có gì đặc biệt để có thể đồng bào ở hải ngoại được biết thêm? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Kính thưa quý thính giả, giáo phận Vinh chúng tôi là một giáo phận nếu xét theo phương diện địa dư thì đứng thứ nhì sau Hưng Hóa. Nếu xét theo dân số thì giáo phận Vinh đứng hàng thứ ba sau Xuân Lộc, và giáo phận Sài Gòn. Nhưng mà chúng tôi là một giáo phận thuộc miền Trung, là một giáo phận nghèo, không những nghèo, mà hơn nữa bị nhiều hậu quả của chiến tranh. Và rồi khúc ruột miền Trung luôn luôn là nơi có rất nhiều thiên tai, lũ lụt. Người dân ở quê tôi vẫn thường nói về Nghệ Tĩnh Bình như sau: Quê tôi gặt sỏi tìm cơm Hết mưa thôi hạn, lại cơn bão gần! Năm ngoái đã bị trận lụt và năm nay rất có thể cũng bị trận lụt. Thành thử ra ưu tiên của chúng tôi hôm nay là tái thiết những cơ sở bị hư hại trong chiến tranh. Và đặc biệt, ưu tiên quan trọng hơn, đó là vấn đề đào tạo nhân sự và loan báo tin mừng cho quê hương chúng tôi, đặc biệt là cho những người trong giáo phận Vinh. Dương Phục: Thưa Đức Cha vừa nói giáo phận Vinh thường xuyên bị những cơn bão lụt thì… Năm ngoái, có trận bão lụt gây tổn hại rất nhiều mà đồng bào khắp nơi ở hải ngoại có những cuộc quyên góp để gửi về tiếp tay với công việc tái thiết những vùng bị bão lụt.
Thành phố Houston ở tiểu bang Texas này, chính anh Hoàng Xuân Lý là người đại diện cho giáo phận Vinh đứng ra lạc quyên vài đài 900 cũng tiếp tay một phần nào để có một số ngân khoản tối thiểu để gửi về, cộng với nhiều nơi khác. Thế thì tình hình nạn nhân bão, tới giờ này như thế nào? Công việc tái thiết tiến tới đâu rồi ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Trước hết xin chân thành cảm ơn quý ân nhân tại Houston này, một nơi mà chúng tôi đã nhận được con số tiền ủng hộ cao nhất. Từ những cộng đoàn khác gửi về thì cộng đoàn ở Houston này với số tiền khoảng 71 ngàn Mỹ Kim, là số tiền cao nhất của các cộng đoàn ở hải ngoại gửi về. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. Và có sự đóng góp của Saigon Radio cũng rất nhiều và nhất là sự đóng góp của Hội Ái Hữu Vinh,… cùng với anh Lý. Dương Phục: Thưa Đức Cha, tới giờ này, những người phải di chuyển đến vùng cao để tránh bão lụt thì tình hình sinh sống như thế nào? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Số tiền chúng tôi thu được tất cả khoảng (nghe không rõ)… Số tiền đó chia làm nhiều cái chi khác nhau. Trước hết là những chi cấp thời cho vấn đề như là mì tôm, quần áo, rồi thức ăn, nước uống trong khi …họ bị lũ lụt. Sau đó là giúp cho họ tái thiết lại nhà cửa. Rồi sau đó thì là giúp cho người ta có giống để mà gieo lại trong cái mùa vừa rồi và trước khi mùa đến, vì nạn nhân đó đã bị hai cơn mất mùa. Cơn lụt cộng với trận mất mùa đó.
Thành thử ra chúng tôi cũng đã giúp đỡ cho những nơi nghèo có gạo ăn ở mùa giáp hạt. Đặc biệt là chúng tôi nghiên cứu thấy có một số xóm luôn luôn bị lũ lụt, thành thử chúng tôi đề nghị là đưa tất cả xóm đó lên vùng cao, xây lại nhà. Cũng một số nơi xây nhà thờ. Ít ra chúng tôi làm được ba xóm như vậy trọn vẹn và một vài nơi khác thì di dời một số căn hộ lên nơi cao. Một vài nơi không có đất mà cũng không có nơi cao để mà có thể di dời thì chúng tôi đã xây những ngôi nhà vượt lũ tập thể.
Những ngôi nhà đó trong bình thường có thể làm sinh hoạt ccộng đồng hay sinh hoạt giáo xứ, nhưng khi mùa mưa đến thì sẽ dùng cho dân trú ngụ trên ngôi nhà đó. Chính vì vậy phải thiết kế làm sao trong ngôi nhà đó vài ba ngày có thể sinh hoạt 200 người, 150 người; vấn đề vệ sinh, vấn đề ăn uống, và có chỗ cho thuyền cập bến. Dương Phục: Thưa Đức Cha, miền Trung thì thường xuyên bị bão lụt gần như quanh năm, bên này cũng nhận được tin đều đặn. Và đây là bản tin mới nhất, mới nhận được sáng nay, có ghi nhận có một trận bão đánh vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Đây là bản tin chính thức của thông tấn xã của nhà cầm quyền, thông tấn xã Việt Nam nói là có 27 người chết và mất tích vì cơn bão số 2 này và bây giờ đương có phòng chống bão lụt ở một số các tỉnh Yên Báy, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An, Thanh Hóa; 60 người bị thương, hàng ngàn ngôi nhà hư hỏng, hàng chục ngàn hecta hoa màu ngập úng.
Đó là tình hình từ tỉnh Thanh Hóa đến Nghệ An hiện nay cũng đương có mưa lớn lắm. Nhận thấy tình hình ở miền Trung, năm nào đồng bào chúng ta cũng quá khốn khổ đi. Vấn đề không những là tái thiết những nơi đã bị sụp đổ mà bây giờ còn phòng những trận bão sắp tới nữa. Về phía chính quyền Việt Nam, với những trận bão đó thì họ có mở những cuộc cứu trợ gì đặc biệt tới những vùng bão lụt không?
DGM Ngô Quang Kiệt và những lụt lội ở Hà Nội
ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Trên nguyên tắc và theo tuyên bố thì có rất nhiều. Nhưng mà, theo như tôi biết thì hầu như số tiền hay là số thực phẩm đến tận tay người dân thì rất ít. Nhưng mà vấn đề quan trọng hơn ở đây được đặt ra là tại sao bây giờ mỗi lần lụt thì có lũ quét, mà lũ quét đến sớm như vậy.
Vấn đề nó nằm ở thiên tai cộng với nhân tai. Nhân tai ở đây là những rừng đầu nguồn bị chặt hết cây. Thành thử ra không còn giữ nước. Khi mà mưa lớn đến là đương nhiên lũ quét đến. Rồi nhân tai ở đây cũng do những cái đập được xây trên những con sông không đúng quy cách. Đáng lẽ ra những đập xây đúng thì không những đập giữ nước mà là đập cắt lũ. Nhưng mà đập đó làm không đúng kế hoạch. Chính vì vậy nó không cắt được lũ mà lại khi lũ đến thì đập đó lại xả thêm nước. Thành thử ra, thiên tai cộng với nhân tai đã đưa đến những kết quả rất thê thảm. Dương Phục: Cám ơn Đức Cha đã cho biết như vậy. Người ta hay nói, thiên tai thì mình cứ cầu nguyện chứ còn biết làm sao ngăn chặn những thiên tai bão tố hàng năm, như những trận động đất trên thế giới, trận sóng thần bên Nhật Bản, người ta không biết làm sao. Nhưng mà, nhân tai, thì mình có thể phòng ngừa được chứ ạ? Chẳng hạn như có những vụ chặt rừng như vậy thì Giáo Hội có thể lên tiếng. Nhân tiện, xin Cha cho biết giữa Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với nhà cầm quyền Việt Nam, có đối thoại không? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Đối thoại chính thức thì thỉnh thoảng mỗi năm khi mà họp ở Hà Nội, thì Ban Thường Vụ cũng đi gặp những cơ quan, lãnh đạo cùa nhà nước. Rồi một vài lần cũng gửi những văn thư. Nhưng mà, được trả lời thì rất ít. Vì ngay cả những chuyện Bauxite hay là những chuyện như là khai thác khoáng sản ở Việt Nam hay chuyện cho thuê rừng thì không những người Công Giáo và các viên chức của Giáo Hội.
Trong đó tôi cũng có ký tên một số bản kiến nghị và có rất nhiều người như là đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi bà Nguyễn Thị Bình cũng ký. Nhưng mà chưa thấy hay là chưa nhận được những thư trả lời cho những kiến nghị đó. Riêng Hội Đồng Giám Mục từ trước tới nay, tôi chỉ là thành viên mới thôi, trước đây nhiều lần đã gửi những kiến nghị, những văn bản, cho đến hôm nay, một vài lần nhận được trả lời bằng miệng nhưng văn bản trả lời chính thức thì chưa thấy. Đó cũng là cách làm việc ở Việt Nam, hình như vậy. Dương Phục: Thưa Đức Cha, ngoài việc giữ nhiệm vụ là giám mục của giáo phận Vinh, còn là chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục thì, Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình làm gì ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Ủy ban Công Lý & Hòa Bình ở Việt Nam cũng là một văn phòng trực thuộc Hội Đồng Công Lý & Hòa Bình của Giáo Hội ở tại Vatican. Chúng tôi cũng theo đường hướng đó. Tức là phổ biến giáo huấn xã hội của Giáo Hội Công Giáo, đưa ra một cái nhìn của Giáo Hội mang chiều kích xã hội, kinh tế, chính trị.
Trong đó nói nhiều đến nhân phẩm, nhân quyền, đến quyền làm người; nói nhiều đến quan điểm đạo đức về kinh tế; nói nhiều đến vai trò phục vụ của chính trị và của các chính phủ. Mục đích chính là nằm ở đó. Nhưng mà, vì Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình của Giáo Hội Việt Nam mới thành lập và khi thành lập xong thì có một vài sự kiện xảy ra cấp thời. Chẳng hạn như vụ Cồn Dầu rồi sau đó đến vụ ở Sóc Trăng. Thành thử chúng tôi phải ra một hai cái bức thư ngỏ về vấn đề Cồn Dầu rồi vấn đề Sóc Trăng. Giáo dân Cồn Dầu đối đầu với công an VC
Chúng tôi cũng đi quan sát một số nơi mà đất đai của Giáo Hội đang bị chiếm giữ mà chưa được trả lại. Thành thử người ta vô tình đồng hóa Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình với Ủy Ban Đòi Đất. Mà thực sự ra không phải vậy. Vấn đề nó rộng hơn. Nó là phổ biến cả một quan niệm về xã hội, một quan niệm về con người, một cái nhìn về kinh tế và chính trị. Dương Phục: Như Đức Cha nói, mục đích là lên tiếng vấn đề nhân quyền, nhân phẩm chứ không phải đi đòi đất đai. Nhưng mà những vụ tranh chấp về đất đai nó lại liên quan phần nào đến vấn đề nhân quyền. Thí dụ như vụ Cồn Dầu, ở hải ngoại cũng đọc được bức thư Đức Cha lên tiếng với tư cách là chủ tịch Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình. Về vụ Cồn Dầu như Đức Cha đã biết là bây giờ chưa giải quyết được điều gì. Có một số đồng bào ở Cồn Dầu đã chạy ra khỏi nước, sang bên Thái Lan.
Bây giờ ngay tại Houston đây, cộng đồng Công Giáo người Việt tại Houston cùng Cha Vũ Thành vừa làm một cuộc gây quỹ để giúp số phận long đong của đồng bào Cồn Dầu ta đương lánh nạn bên Thái Lan. Thưa Đức Cha, những vụ tranh chấp về đất đai, thí dụ như vụ gay go liên quan đến Đức Cha Ngô Quang Kiệt trước đây là vụ tranh chấp đất ở Tòa Khâm Sứ, hay là vụ Tam Tòa, vụ Thái Hà. Quan điểm của Cha như thế nào về những vụ này? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Tôi thấy phải nhìn vấn đề rộng hơn. Tức là phải yêu cầu sửa lại luật đất đai. Chính cái luật đất đai đó gây rất nhiều vụ khiếu kiện ở Việt Nam mà những vụ khiếu kiện đó thì ở xã hội dân sự có rất nhiều người "bà mẹ anh hùng" cũng đến xếp hàng rồi biểu tình trước những phòng tiếp dân của chính phủ. Vấn đề đất đai của Giáo Hội chỉ là một phần nhỏ. Và chúng tôi đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu quốc hội cũng như cơ quan thẩm quyền phải tu chỉnh lại cái luật đất đai. Vì trong cái luật đất đai có nhiều điểm là không thích hợp với thời đại, không thích hợp với nền kinh tế thị trường; cũng như không thích hợp với công bằng xã hội. Nhất là, đó là một trong các nguồn chính tạo nên tham nhũng, tạo nên lạm quyền ở Việt Nam bây giờ.
Vì trên nguyên tắc đất đai thuộc về nhân dân nhưng do nhà nước quản trị. Cái đó là nhà nước quyết định. Nhân dân chỉ có cái tiếng là đất đai thuộc về nhân dân nhưng mà nhà nước quản trị; nhân dân có quyền gì trong đó? Hơn nữa, bây giờ Việt Nam đang đi vào thị trường chung; đang đi vào Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế; đang dần dần để hội nhập với dòng chảy chung của nhân loại thì luật lệ; đặc biệt là luật về đất đai cũng nên làm sao tu chính lại cho hợp với đà tiến của nhân loại. Dương Phục: Hồi nãy, Đức Cha vừa nói một trong những mục đích của Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình là lên tiếng về nhân quyền, nhân phẩm của con người, cũng có liên quan đến các vấn đề chính trị nữa. Giáo Hội có cho phép các linh mục hoạt động chính trị không? Vừa rồi có một số linh mục ra tranh cử, sự kiện ấy như thế nào ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Theo Bộ Giáo Luật thì linh mục và tu sĩ không được hoạt động chính trị. Nghĩa là không được gia nhập các đảng phái chính trị và cũng không được đảm nhận một chức vụ trong cơ quan chính quyền. Khi có lý do đặc biệt thì phải có phép chính thức của đầng bản quyền, tức là Giám Mục sở tại. Chính vì vậy, có lẽ có vài nơi, Giám Mục sở tại đã cho phép một cách minh nhiên hay ngấm ngầm. Đa số các phép đó không phải bây giờ mà là sau 75. Khi sau 75 thì Giáo Hội cũng như tất cả những người còn lại ở miền Nam, theo như tôi biết, lúc đó tôi ở ngoài Việt Nam, coi như là ở trong cái thế khác và hình như là bị áp đặt rất nhiều. Chính vì vậy, Giáo Hội Công Giáo cũng bị áp đặt như vậy. Trong mấy năm gần đây đã có một số suy nghĩ khác hơn - lúc này Việt Nam bắt đầu có những tương quan rõ rệt hơn với Tòa Thánh Vatican và Hội Đồng Giám Mục cũng như các Giám Mục đã đối thoại trực tiếp với một số cơ quan chính quyền. Chính vì vậy, có một số ý kiến đề nghị, đã đến lúc Giáo Hội cũng nên áp dụng cái khoản luật của Vatican về vấn đề linh mục và tu sĩ không nên tham gia các cơ quan chính quyền cũng như không nên ra ứng cử quốc hội hoặc là thành phố. Dương Phục: Thưa Đức Cha, Đức Cha là người đã đi ra khỏi nước từ trước năm 1975, từ năm 72 phải không ạ? Đức Cha sống ở nước ngoài một thời gian rất lâu 7, 8, 9 năm gì đó ở Âu châu phải không ạ? Sau đó mới về nước. Có thể nói Đức Cha là một trong những Giám Mục đầu tiên mà không phải là người sống liên tục ở trong nước sau năm 75. Hiện tượng này có nói lên được điều gì không ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Tôi đi ra ngoại quốc từ năm 1972. Sau đó, từ năm 80 cho đến năm 95 thì tôi hoạt động ở Mỹ Châu La Tinh. Rồi sau đó, từ năm 95 đến năm 2003 thì tôi dạy học ở Roma. Từ năm 2003 thì tôi trở lại Việt Nam. Chính vì vậy, đây là trường hợp đầu tiên, nhưng tôi cũng là một trường hợp đặc biệt là mặc dù tôi đi từ năm 1972 nhưng mà tôi vẫn luônn luôn giữ quốc tịch Việt Nam, chưa đổi một quốc tịch nào khác.
Có lẽ vì thời gian hoạt động của tôi ở quá nhiều nước, cũng không tiện. Tôi vẫn chưa thấy lý do để từ bỏ quốc tịch Việt Nam, và cũng chính vì vậy, có lẽ như người ta nói tôi là một Giám Mục đầu tiên và như anh Dương Phục vừa nói, không sống thường xuyên ở Việt Nam mà là một Giám Mục ở nước ngoài trở về. Có lẽ chính vì vậy, cái thời gian tôi được bổ nhiệm thì cái thời gian đó cũng mất phải hơn hai năm, cuối cùng mới đi đến cái công bố.
Dương Phục: Thưa Đức Cha, trong đời sống của một tu sĩ, của một vị cai quản một giáo phận, cái điều gì làm cho Đức Cha vui nhất và có điều gì làm cho Đức Cha không vui nhất? Nếu cần phải thay đổi, thì đó là cái gì? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Có nhiều cái muốn thay đổi. Nhưng mà lúc đầu tôi cũng thấy là cần phải thay đổi, thay đổi nhanh. Nhưng mà sau đó thì tôi nghĩ là tôi phải an vui, là chấp nhận cái giới hạn và cũng thay đổi từ từ. Vì thay đổi bây giờ là phải thay đổi nhân sự trước. Thay đổi từ lối nghĩ, từ tầm nhìn trước.
Và hơn nữa thì theo quan điểm của Vatican II thì chúng tôi phải đối thoại. Đối thoại với các linh mục; đối thoại với giáo dân; và đối thoại cả với nhà cầm quyền nữa, thì mới có thể thay đổi được. Vì chúng tôi sống trong một cái đất nước khác với Hoa Kỳ này. Và ngay cả tại Hoa Kỳ này, có nhiều cái cũng phải đối thoại mới thay đổi được. Tôi nghĩ rằng, vấn đề quan trọng nhất, đối với đất nước cũng như đối với Giáo Phận Vinh chúng tôi, đó là vấn đề nhân sự; đối với đào tạo con người. Chính vì vậy, tôi rất băn khoăn về vấn đề giáo dục ở Việt Nam. Vì tôi thấy rằng, có lẽ chưa bao giờ cái nền giáo dục của mình xuống thấp một cách thê thảm như vậy. Mặc dù trong những năm sau cùng này, Việt Nam đã chi nhiều hơn cho giáo dục. Dương Phục: Cha nói xuống thấp là trình độ giáo huấn xuống thấp hay là số trẻ em đến trường chẳng hạn, con số xuống dốc? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Không. Con số các em đến trường ngày càng tăng cao. Nhưng mà chất lượng giáo dục, cái thành quả giáo dục và cái chương trình giáo dục. Cái đó xuống thấp. Mặc dù nhà nước đã cố gắng để nâng cao con số các em đến trường. Khi nói về vấn đề giáo dục thì có lẽ phải chờ đến một cuộc phỏng vấn khác mới có thể bàn thảo lâu được.
Nhưng mà tôi nghĩ rằng, để mà chuyển đổi giáo dục thì nó cả là hệ thống, cả một cơ cấu. Hệ thống chính trị là vòng lớn, giáo dục chỉ là cái vòng con. Chính vì vậy, nếu mà triệt để tỷ như một số người nói thì phải thay đổi cả cái cơ chế chính trị rồi mới nghĩ đến vấn đề thay đổi cái hệ thống giáo dục. Vì hệ thống giáo dục lệ thuộc vào cơ chế chính trị. Tuy nhiên, nghĩ đi nghĩ lại, mặc dầu cái hệ thống lớn chưa thay đổi được, nhưng mà làm khá hệ thống con thì những người học sinh, những người đang lệ thuộc hệ thống giáo dục cũng bớt tác hại hơn.
Chẳng hạn, có thể đưa ra một triết lý giáo dục khác. Chúng ta giáo dục để làm gì? Đâu là con người mới mà chúng ta muốn giáo dục và giáo dục đó để đào tạo con người hay để chạy theo thành tích. Và cái điểm đó mang giá trị gì? Mang giá trị thành tích hay cái điểm đó chỉ nói lên khả năng của các con em.
Thành thử ra tôi nghĩ rằng, có lẽ là đến lúc vì tương lai của đất nước nên nghĩ đến cải tổ giáo dục. Cải tổ giáo dục một cách sâu rộng chứ không thể làm như hiện tại cứ mấy năm lại cải tổ một lần, lại in lại sách giáo khoa. Nếu in lại sách giáo khoa nhưng mà chưa đổi triết lý giáo dục, chưa đổi cái định hướng giáo dục thì lúc đó, tôi nghĩ rằng chỉ tốn tiền mà không ăn thua gì. Dương Phục: Thưa Đức Cha, Đức Cha là thành viên của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam bình thường hoạt động như thế nào. Các Ngài họp lại với nhau một năm một lần, hoặc bao lâu đó một lần, để quyết định cái đường lối, đường hướng, cách đi, hoặc là có khi có cái phản ứng trong cái tình trạng căng thẳng nào đó. Có phải vậy không? Thật sự bổn phận của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là gì đối với Giáo Hội Việt Nam? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng, cám ơn anh vì câu hỏi rất ý nghĩa, là một câu hỏi có lẽ một số người cũng đang muốn tìm hiểu. Thì Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trước đây, sau năm 1975, cho đến năm 80 hầu như là không họp được. Năm 1980, lần đầu tiên mới có cuộc họp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cả Nam và cả Bắc. Mặc dầu trên nguyên tắc, trên lý thuyết, thì hàng giáo phẩm Việt Nam đã được thành lập từ năm 1960, nhưng mà lúc đó, dưới thời chiến tranh và mãi đến năm 1980 mới có cuộc họp đầu tiên. Và trong cuộc họp đó thì cũng chỉ có 3,4 tiểu bang thôi. Rồi sau đó, cũng không phải là mỗi năm đều được họp, vì lệ thuộc vào cái tương quan có xin "được phép" hay không! May mắn là trong thập niên cuối cùng, thì mỗi năm đã họp 2 lần. Một lần vào sau Phục Sinh, và một lần vào Tháng Mười. Thì mỗi cuộc họp như vậy có những chủ đề, và thời giờ hình như là để hết cho vấn đề đọc tài liệu, và thảo luận về những bản văn, những công bố. Có lẽ chính vì vậy mà chưa có giờ để mà nghiên cứu hay trả lời, hay đáp ứng lại thách đố cụ thể của thời đại. Có lẽ điều đó phần nào lệ thuộc vào cách làm việc. Hầu như vẫn là theo cách làm việc ở thời bao cấp, có Ban Thường Vụ, nhưng mà Ban Thường Vụ nhiều khi cũng không họp thường xuyên. Rồi văn phòng của Hội Đồng Giám Mục ở một nơi, mà chủ tịch lại ở nơi khác. Rồi chưa có đủ nhân sự làm việc toàn thời gian. Chính vì vậy, có lẽ một số người nghĩ rằng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chưa đáp ứng được cái nhu cầu của xã hội, của giáo hội, cũng như của cộng đồng Dân Chúa. Dương Phục: Thưa với Đức Cha, có thể là vì như thế, mà đôi khi có một số những giáo dân cấp tiến, ngay ở trong hàng ngũ linh mục, thì đôi khi có những quan niệm cho rằng Hội Đồng Giám Mục im lặng nhiều quá? Có những cái mà người ta nghĩ rằng lẽ ra phải lên tiếng, mà không lên tiếng, có tính cách hơi thụ động quá? Không biết là cái quan niệm đó có đúng vào trường hợp Đức Cha giải thích không? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Có lẽ quan điểm đó cũng đúng một phần. Trước một sự kiện, chúng ta có thể đưa ra nhiều cách trả lời. Nhưng mà chúng ta cũng có thể nhìn một cách khác. Theo tôi nghĩ rằng cái cách làm việc, cách hành động của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam bây giờ vẫn là theo cái cách từ trước kia thời bao cấp.
Trong giai đoạn đó thì chúng ta thấy rất là rõ rệt. Một phe là chống, một phe là theo. Và chúng ta thấy là nó không có đối thoại mà là "đối thụi", hay là theo. Và một bên thì đối thụi, nhiều khi lúc đầu bằng vũ lực, bằng bom đạn, sau đó thì bằng lời nói, bằng những tuyên ngôn rất là gắt gao. Nhưng mà một bên khác thì mình ở trong thế yếu, mình phải chấp nhận và cố gắng làm sao trong bối cảnh đó, giữa những áp lực đó, mình vẫn có thể làm việc được, và giáo dân vẫn có thể tiếp tục sinh hoạt tôn giáo. Cái giai đoạn đó kéo dài, từ khi Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị và sau đó, Đức Giáo Hoàng Biển Đức Thứ 16 đưa ra quan niệm là "đối thoại thẳng thắn, cộng tác chân thành". Thì lúc đó, đặt một cái cầu ở giữa, đòi hỏi những người ngày xưa đối thụi cũng phải cộng tác. Những người ngày xưa vẫn cộng tác một cách âm thầm, chỉ có im lặng mà làm, thì bây giờ cũng phải lên tiếng. Chính vì vậy, cái "yếu tố mới" này nó nằm ở đó. Và có lẽ một số người chưa có cơ hội để mà thích ứng với hoàn cảnh mới, thì tôi nghĩ rằng trong tương lai, có lẽ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam phải lên tiếng nhiều hơn.
Và để lên tiếng được nhiều hơn như vậy, trong Hội Đồng Giám Mục cũng đã được nhiều lần đề nghị, mà không hiểu tại sao vẫn chưa thi hành được, đó là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cần có một phát ngôn viên chính thức, để có thể nói lên tiếng nói chính thức của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về một số sự kiện. Rồi cũng có thể nên có những thông cáo, hay là những bản văn, để lên tiếng về một số những tình , một số sự kiện mà như một số Hội Đồng Giám Mục khác vẫn làm. Tôi nghĩ rằng trong tương lai, thế nào rồi cũng đến đó. Và cũng phải hiểu hoàn cảnh làm việc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam rất là khó khăn. Hiện thời vẫn chưa có trung tâm, bây giờ mới bắt đầu xây Trung Tâm Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Đó là cơ sở. Chưa có cơ sở. Các tiểu bang vẫn đầy hoạt động lẻ tẻ ở nhiều nơi khác nhau. Dương Phục: Như vậy có thể nói là trấn an những giáo dân nào sốt ruột quá đó thì thôi, nói như Đức Cha thì thôi hãy cứ chờ đi phải không ạ, thế nào rồi cũng sẽ có đường hướng thay đổi, phải không ạ. ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Dương Phục: Bây giờ xin phép Đức Cha cho chuyển qua một đề tài nữa, có tính cách thời sự hơi nóng hiện nay, đó là vấn đề Trung Cộng. Trung Cộng với Việt Nam gay cấn lắm. Bộ ngoại giao Trung Cộng. rồi bên bộ ngoại giao Việt Nam có những lời đối đáp đấu khẩu đe dọa về phía Trung Cộng. Có thể tiến tới đụng độ quân sự trên vùng Biển Đông. Những cuộc biểu tình liên tiếp trong 4 tuần qua, từ ngày 12.5 đến Chủ Nhật sắp tới mùng 3 tháng 7 nghe nói là vẫn đương dồn dập lắm, để chuẩn bị biểu tình. Thế thì Đức Cha nghĩ sao về những sự kiện này? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn văn Bình của chúng tôi là một câu lạc bộ quy tụ một số anh em trí thức Công giáo và làm việc chung với những trí thức không Công giáo, trí thức cựu cộng sản hay cộng sản. Câu lạc bộ của chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức những cuộc tọa đàm, về vấn đề giáo dục, vấn đề xã hội, vấn đề chính trị, vấn đề giáo hội. Và trong các cuộc toạ đàm đó, năm 2009, chúng tôi tổ chức cuộc toạ đàm đầu tiên công khai ở Việt Nam, là Biển Đông và Hải Đảo ở Việt Nam. Khi tổ chức cuộc toạ đàm đó, thì cuộc toạ đàm trở thành một điều mà chúng tôi gọi là một đề tài nhạy cảm. Và lúc đó, hầu như không được nhà nước công nhận. Gây rất nhiều khó khăn. Thành ra có một số diễn giả là dân biểu, giáo sư hiện thời đương chức, công nhân viên đương chức của nhà nước bị áp lực rút lui khỏi cuộc toạ đàm đó. Bản thân tôi rất nhiều lần, 12 giờ đêm, 1 giờ sáng, bị gọi điện thoại đánh thức dậy để yêu cầu phải chấm dứt cuộc toạ đàm đó, yêu cầu lên gặp cơ quan hữu trách để mà thảo luận về cuộc toạ đàm đó. Cuối cùng chúng tôi vẫn làm. Vẫn làm. Và sau đó, thì chính cơ quan hữu trách của nhà nước đề nghị in tài liệu của cuộc toạ đàm đó. Đã in rồi. Đã in thành cuốn sách mà rất tiếc tôi không có đưa tới đây. Gọi là "Biển Đông và Hải Đảo Việt Nam", do nhà xuất bản Tri Thức. Sau đó, lại có một tổ chức khác bỏ ra để dịch ra tiếng Anh. Thì bản tiếng Anh cũng sắp được in. Trong cuộc toạ đàm đó, có một người hỏi tôi: lâu nay, thưa linh mục, có tàu lạ hay đến biên giới Việt Nam, "tàu lạ" đánh phá các tàu Việt Nam, và linh mục có biết tàu lạ đó là tàu gì không?
Tôi nói là tôi là một người thường, làm sao biết chuyện đó. Câu hỏi đó đáng lẽ ra phải hỏi bộ đội biên phòng, hay là công an. Nhưng mà vì ông đã hỏi thì tôi cũng xin trả lời. Tôi nghĩ tàu lạ hay tàu quen, tàu to hay tàu nhỏ, tàu mới hay tàu cũ đều là "tàu" cả. Và hôm nay, tất cả mọi người đều biết những chiếc tàu đó là tàu cuả Trung Quốc, không phải tàu lạ nữa.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ tiếp tục làm một cuộc toạ đàm mới về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông vào tháng 9 tới. Và hiện thời, mới đây, trước đây thôi, cách đây mấy ngày, một số thành viên trong câu lạc bộ của chúng tôi cùng một số nhân sĩ đã ra một tuyên cáo về chủ quyền Việt Nam. Chắc chắn là đã đến tay anh Dương Phục, là vì tôi khi tôi ra nước ngoài, họ cũng có gọi sang đây hỏi tôi có đồng ý ý không, thì tôi đã cho thêm tên tôi vào đó. Tôi đồng ý ký vào bản văn đó. Đối với chúng tôi thì như thế này, đối với tương lai của dân tộc, và theo Công Pháp Quốc Tế về Luật Biển, năm 1982, thì không thể chấp nhận "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc chủ trương. Vì khi Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò, cái đường chín khúc đó, thì coi như trắng trợn xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam và của nhiều nước như Phi Luật Tân, Brunei. Cái đường đó kéo tận xuống tới Brunei, Indonesia. Chính vì vậy, có lẽ đây là lúc mà tất cả mọi người Việt Nam, bất phân tôn giáo, bất phân chính kiến, ở trong cũng như ngoài, theo truyền thống của dân tộc, phải can đảm đứng lên để tranh đấu cho sự sống còn của Đất Nước. Vì trong thời đại hôm nay, Đất Nước Việt Nam không phải chỉ từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, cũng không chỉ giáp Trung Quốc Lào và Campuchia. Đất Nước Việt Nam bây giờ phải vươn ra Biển Đông, mà theo Công Pháp Quốc Tế, nếu tính thêm lãnh hải nữa, thì Đất Nước chúng ta gấp 3 lần diện tích ngày xưa. Đó là tương lai, đó là cửa mở ra thế giới bên ngoài. Chính vì vậy, chúng tôi cũng lấy làm ngạc nhiên là tại sao, nhà nước tỏ ra thiếu nhât quán. Nhà nước vẫn hô hào là bảo vệ lãnh thổ, phải tranh đấu để bảo vệ chủ quyền Việt Nam, thì đáng lẽ ra đây là lúc nhà nước phải kêu gọi, thúc đẩy nhân dân đoàn kết. Tổ tiên chúng ta ngày xưa nhờ sức mạnh của nhân dân mà đã đánh thắng được những giặc ngoại xâm, lớn hơn và mạnh hơn chúng ta rất nhiều!
Trong cuộc chiến hôm nay, tôi nghĩ rằng không những cần đến sự đoàn kết của người Việt. Hơn nữa, trong thời đại này, phải cần đến sự hỗ trợ của quốc tế, của tất cả các nước ở vùng Đông Nam Á. Chính vì vậy, không thể hiểu được là nhà nước vẫn chủ trương là đối thoại song phương với Trung Quốc. Trong nước, có lẽ chúng tôi không tin ở những lời hứa đẹp đẽ, "mười sáu chữ vàng" với "tình hữu nghị" đó. Vì có quá nhiều kinh nghiệm cho thấy đó chỉ là những lời hứa hão. Chính vì vậy, cần phải đoàn kết nhiều hơn với các dân tộc ở Đông Nam Á, rồi các cường quốc nữa, như là Ý, Nga, Pháp, Nhật, Đức là những nước có chung một quan niệm để xây dựng một thế giới khác hơn, huynh đệ hơn. Cũng có những nước vì lợi ích kinh tế nào đó trên Biển Đông. Chứ không thể chấp nhận biến Biển Đông thành cái ao nhà của Trung Quốc.
Chính vì vậy, tôi nghĩ rằng đây là lúc cần hô hào, để cho nhân dân trong nước cũng như ngoài nước nói lên cái quan điểm của mình, nói lên tấm lòng của mình đối với Đất Nước, bằng những phương tiện hoà bình, bằng những phương tiện ôn hòa. Nhất là trên mạng hay biểu tình, bằng những phương tiện ôn hòa.
Tam Tòa tập hợp biểu tình & cầu nguyện
Dương Phục: Rất là chân thành cám ơn Đức Cha đã cho một quan điểm rất là thẳng thắn về vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay, đương sôi sục ở Việt Nam, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng ở hải ngoại. Rất nhiều người cũng thắc mắc là lẽ ra cộng sản Việt Nam phải khuyến khích những cuộc biểu tình chống Trung Quốc, chứ sao họ lại đàn áp, lại dẹp những cuộc biểu tình ở Hà Nội SàiGòn trong suốt 4 tuần qua.
Thưa Đức Cha, trước đây thì Đức Cha cũng đã từng lên tiếng, từng ký tên vào những thỉnh nguyện thư về vấn đề bauxite ở Việt Nam, về vấn đề tuyên ngôn Hoàng Sa Trường Sa. Và việc bênh vực cho luật sư Cù Huy Hà Vũ nữa đó. Thì Đức Cha có bị phiền hà về những điều này không? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Lúc mà tôi còn là linh mục, thì một vài lần bị gọi điện thoại ban đêm, có phiền hà. Nhưng mà đối với một Giám mục thì cũng được các nhân viên cao cấp đến thảo luận, đến gặp, và nhiều khi đưa quà đến biếu. Rồi gặp, thảo luận, yêu cầu là "xin lưu ý", "xin hiểu cho tình hình Việt Nam" . Chẳng hạn như trong lễ ra mắt của Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình. Trong lễ ra mắt đó, không những là vấn đề phát biểu và quan điểm về Công Lý và hoà bình, mà lại có một vài người được mời để mà phát biểu có lẽ tên những người đó không phải vào thành phần "dễ thương". Thì cũng được đề nghị là nên bỏ tên những người đó. Thì chúng tôi cũng trả lời thẳng thắn. Chúng tôi có đưa bản văn. Nếu bản văn đó có gì không đồng ý thì góp ý, thì xin cho chúng tôi biết. Chứ còn chúng tôi không thể đương nhiên tiên thiên loại trừ một ai! Khi mà không đưa ra quan điểm nào là quan điểm của họ, cái gì phản động hay là không phải. Cho đến hôm nay thì chúng tôi cũng bị rất nhiều áp lực, áp lực xa áp lực gần. Nhưng mà theo lương tâm cũng như theo sứ vụ của chúng tôi, thì chúng tôi cũng cố gắng. Không biết đến bao giờ và được đến đâu, thì cái chuyện đó cũng không ai dám nói mạnh. Dương Phục: Vâng, hồi nãy Đức Cha có nhắc đến hoạt động của câu lạc bộ Nguyễn văn Bình, thì thưa quý thính giả, chúng tôi đang có ở trên tay một cuốn sách mới của Đức Cha là Việt Nam Quê Hương Mến Yêu của Giáo Hội. Mà chúng tôi cũng thấy ở trong trang cuối thì cũng có giới thiệu một loạt các tác phẩm khác của Đức Cha, viết về nhiều lãnh vực khác nhau, về thần học cũng như liên quan tới đời sống con người.
Sách về Quê Hương cũng như những sách có tính cách nghiên cứu, như những học giả, nghiên cứu sâu về những đề tài khác nhau. Kể cả cuốn về Biển Đông và Hải Đảo Việt Nam nữa. Thì bình thường trong đời sống hàng ngày của Đức Cha, thì thì giờ của Đức Cha như thế nào? Chắc Đức Cha cũng tốn nhiều thì giờ để đọc sách, cũng như để viết sách có phải không ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Ngày xửa ngày xưa đó, khi tôi nói ngày xửa ngày xưa thì có vẻ lâu, nhưng cách đây vài tháng, khi tôi chưa đảm nhận chức vụ Giám Mục thì tôi có rất nhiều giờ để đọc sách. Đó là giai đoạn rất vui khi tôi đi dạy học, đi thuyết trình, dạy học ở các Đại Chủng Viện, các trung tâm thần học liên Dòng. Cũng như một vài đại học ở nhà nước. Và cũng thường xuyên đi tham dự các cuộc hội thảo quốc tế. Thì rất là vui. Và tôi thường làm bạn với sách. Cũng có được một thư viện nho nhỏ. Nhưng mà từ 10 tháng nay thì thì giờ đọc sách rất là ít. Dương Phục: Từ khi đảm nhiệm chức vụ Giám Mục làm cho Đức Cha bận lắm hay sao ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng Dương Phục: Bận tiếp khách, hay là bận lo nhiều giáo xứ khác nhau? Có những rắc rối trong từng giáo xứ? Hay là vấn đề gì đụng chạm đến chính quyền địa phương? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Không, không đụng chạm nhiều. Nhưng mà vì giáo phận quá rộng. 3 tỉnh. Dương Phục: 3 tỉnh? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Dương Phục: Tỉnh gì ạ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Thành ra nếu đi mục vụ trong tỉnh Quảng Bình là tôi mắc bận cả ngày. Tôi đi 6 tiếng, tôi về 6 tiếng nữa. Đi rất là sớm, 3 giờ 4 giờ sáng đi rồi. Lúc về thì đã khuya rồi. Có khi cũng mệt, cũng phải tiếp khách. Tôi lúc đầu cũng lý tưởng, tôi tưởng như ở bên đây, mỗi tuần tôi lấy một ngày "off", tôi lên chương trình là ngày thứ tư. Nhưng từ đấy đến nay, tôi chưa lấy được ngày thứ tư nào. Dương Phục: không có day-off ĐGM Nguyễn Thái Hợp: (cười) Nhưng mà có những ngày đáng lẽ tôi đi mục vụ, mà tôi không đi, tôi đọc sách, tôi viết. Nhưng mà cũng không được nhiều. Lúc đầu tôi có ảo tưởng rằng, tôi đi trên xe thì tôi đọc sách, nhưng con đường Việt Nam nó không được bằng phẳng như bên này, thành ra chỉ đọc được nữa tiếng rồi sau đó phải bỏ. Vì xe nó cứ nhồi lên nhồi xuống, mắt của tôi không thích ứng được.
Thành ra, sau khi đọc sách được ít lâu, được nữa tiếng, thì mắt nó mỏi. Không hiểu là có vị nào mắt khá hơn. Chẳng hạn như tôi đi phicơ thì tôi đọc được mấy tiếng liền, nhưng mà đi xe thì đọc được nữa tiếng là cùng. Thành ra thời giờ của chúng tôi rất là eo hẹp. Nhưng mà thỉnh thoảng, tôi cũng tốn hai ba ngày đi đâu đó đọc sách. Dương Phục: Hóa ra làm việc quá nhiều, phải bớt thì giờ đọc sách đi phải không ạ. ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Dương Phục: Thưa Đức Cha, chuyến đi Hoa Kỳ này, Đức Cha đi nhiều nơi, từ California, Texas, rồi Đức Cha lại sắp sửa đi Virginia, và nhiều nơi khác nữa. Tiếp xúc với khắp nơi như vậy, Đức Cha có cái nhìn như thế nào đối với đồng bào Công giáo ở hải ngoại? Có nhiều người nói là đi ra nước ngoài như Hoa Kỳ, bị hội nhập vào xã hội tân tiến lôi cuốn, trong đời sống máy móc hàng ngày, cho nên, vấn đề Đức Tin giảm đi, so với đồng bào Việt Nam. Nhất là giới trẻ, thế hệ thứ hai ở đây nói tiếng Anh giỏi hơn tiếng Việt, ít đi nhà thờ hơn là những thanh niên ở Việt Nam. Cha có đồng ý điều đó không? Có thấy cái sự nào, Đức Cha có đôi lời khuyến cáo? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: (cười) Tôi đâu có dám múa rìu qua mắt thợ. Chỉ là khách đến đây thôi. Nhưng mà chính vì vậy, đâu có dám múa rìu qua mắt thợ. Nhưng mà tôi nghĩ, ngay cả ở Vinh của chúng tôi, tôi cũng đã thường thường suy nghĩ như thế này. Ngày xửa ngày xưa, lúc mà người giáo dân ở trong một xứ đạo khép kín, thì giáo lý, hình thức sống đạo của chúng ta dạy cho con người giữ đạo thôi. Giữ đạo, tức là theo kinh này, nghi lễ này, phép tắc này. Giữ được như vậy thì nhiều khi coi là người giáo hữu tốt. Nhưng mà rồi người Công giáo Vinh hôm nay đã bắt đầu đi nơi khác, di dân vào SàiGòn, đi sang nước khác. Thì nếu mà tiếp tục đường hướng đó, thì không giúp cho họ sống được Niềm Tin Kitô Giáo trong cái nơi mới. Thành thử ra, đến lúc mục vụ phải đổi, hình thức là giúp họ sống đạo, chứ không phải giữ lại kiểu mẫu nào. Mà làm sao họ ý thức được đâu là các điểm căn bản của Kitô giáo, để họ có khả năng đáp ứng được với môi trường mới. Lý thuyết là vậy. Nhưng mà bây giờ thực hành làm sao, thì đòi hỏi một số thời gian. Vì ngay cả người truyền đạt cái đó, chưa có ý thức, hay chưa có xác tín, hay chưa hiểu rõ. Chính vì vậy, chúng tôi bây giờ đang ở giai đoạn sống và loan báo Tin Mừng. Chứ không chấp nhận hình thức "giữ đạo" mà thôi. Giữ khư khư lại tôn giáo, coi khi mình giữ như vậy thì mình đã là người Công giáo tốt, và bắt con cái giữ như vậy. Nhưng mà ra khỏi môi trường đó, ra khỏi khung cảnh đó, liệu rằng con cái chúng ta còn giữ đạo được không? Bây giờ, cái thách đố là làm sao giúp cho mỗi người ý thức đâu là cái cốt yếu của Tin Mừng, và sống Tin Mừng là phải sống như thế nào. Rồi làm sao loan báo Tin Mừng đó cho những người chung quanh. Cho những người khác. Về điểm này, có lẽ anh em Tin Lành làm khá hơn người Công giáo. Chính cái điểm này đòi hỏi người Công giáo phải suy nghĩ, người Công giáo ở Việt Nam cũng như ở Hoa Kỳ và nơi khác. Chính vì vậy, sông có khúc, người có lúc, nhập gia tùy tục. Kitô giáo từ bản chất, không đồng hóa với bất cứ nền văn hóa nào. Nhưng mà nhiệm vụ của người Kitô Hữu là phải sống và thể hiện Tin Mừng trong tất cả mọi nền văn hóa, mọi cơ cấu chính trị. Ở đây, tôi xin phép được nói thêm một câu, có người hỏi tôi mà tôi chưa có dịp trả lời. Thì khi mà tôi nói tu sĩ linh mục theo giáo luật không được phép "làm chính trị", và như vậy, nhiệm vụ làm biến đổi hay lật đổ một cơ chế chính trị không thuộc hàng giáo phẩm. Nhưng mà thuộc về giáo dân! Thuộc về những người Công giáo với tư cách.... (Dương Phục nói chen vào). Không cấm cản! Dương Phục: Nếu có giáo dân tới thưa với Đức Cha ô ngày mai có cuộc biểu tình, thì bây giờ thưa với Cha con đi biểu tình được không, thì Cha có…? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Đó là trách nhiệm của ông. Vatican II nói là trong những lựa chọn chính trị, thì chính anh chị em giáo dân, với sự trưởng thành của mình, nên tự lấy quyết định, và đừng có mong, hay là đừng trông chờ nơi linh mục cái lời khuyên cho những lựa chọn chính trị của mình. Và Vatican II cũng nói, là rất có thể những người Công giáo cùng nhiệt thành như nhau, nhưng mà có những lựa chọn chính trị khác nhau. Dương Phục: Nhưng mà thường thường giáo dân, nhất là ở Việt Nam có thói quen cái gì cũng hỏi Cha xứ hết. Hỏi ý kiến Cha hết. Ngày mai con đi biểu tình, Cha có cho đi hay không. Cha có cho không. Cha có nói thôi cứ đi đi, hay là không đi? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Cái đó, thật sự ra, không thuộc quyền của Cha để nói chuyện đó. Mà Cha phải giải thích, để rồi tự họ, họ lãnh nhận chuyện đó. Dương Phục: Thường thường người ta hay nói chung, ở nơi nào cũng vậy, gia đình là rường cột rồi giới trẻ là tương lai của đất nước, tương lai của Giáo Hội. Giới trẻ ở Việt Nam theo những nhận định, nói chung bây giờ, thì giới trẻ giữ đạo rất cứng một phần là như thế này.
Không phải là Giáo Hội buộc mà cha mẹ buộc, buộc con phải đi lễ; không đi lễ nhiều khi rất là rắc rối với ông Bố. Đôi khi đi lễ mà ngủ gật thì ông Trùm quất cho. Nhưng mà ở đây, Bố Mẹ không bắt con cái được như vậy. Ở đây là xứ tự do. Con cái có quyền, nó nói Bố Mẹ đi lễ, con không đi lễ. Nó nói đó là quyền của con. Cha nghĩ sao? Tương lai của Giáo Hội mà giới trẻ ở xứ tự do này phóng túng quá đi. Có quyền chọn lựa riêng tư, tôn trọng quyền cá nhân nhiều quá… Ngay cả giữa Bố Mẹ Anh Chị Em. Điều đó, Cha nghĩ sao? Có thích hợp với nền văn hóa Việt Nam và có e rằng cái cộng đồng Việt Nam, giới trẻ Việt Nam càng ngày càng sa vào cái quyến rũ vật chất quá không? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Câu hỏi đó tôi đang định hỏi anh Dương Phục. Là người làm truyền thông có kinh nghiệm nhiều và chiều nay tôi có dịp sẽ gặp gỡ một số linh mục Việt Nam ở đây, tôi cũng đang định hỏi câu đó. Mong rằng anh Dương Phục cho tôi vài ý kiến để tôi có thể giúp giới trẻ Việt Nam khi mà xã hội chúng ta sẽ lần lần hội nhập vào môi trường của thế giới. Dương Phục: Vâng. Đương định phỏng vấn Cha thì bị Cha phỏng vấn trở lại. Nếu Cha đã đi thăm viếng nhiều nơi ở hải ngoại, ở bên Mỹ, chắc Cha cũng đã thấy giới trẻ đi lễ hơi ít đi so với người lớn tuổi. Đó là câu trả lời rất mông lung. Nhưng mà vấn đề đó là vấn đề nhức đầu đối với giới trẻ những thế hệ khác nhau, Thế hệ thứ nhất, thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba ở tại nước Mỹ này. Ở Việt Nam, Cha không phải đối phó với chuyện đó.
Không có thế hệ nào cả. Tới ngày Chủ Nhật phải đi lễ, không thôi thì quất, phải không ạ? Rất là cám ơn Cha đã cho cuộc phỏng vấn ngày hôm nay. Chúc Cha những ngày ở bên Mỹ này, đặc biệt là thành phố Houston, vừa ý Cha trong mọi diễn tiến. Trong những ngày sắp tới còn lưu lại thành phố Houston, Cha cócòn đến làm lễ nơi nào không? Nhân tiện có nhiều người đang nghe đài, xin Cha loan báo để giáo dân đến gặp Cha hay dự dự Thánh Lễ? ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Vâng. Chân thành cảm ơn anh Dương Phục đã có nhã ý cho có dịp để đàm đạo với anh về một số vấn đề liên tới đất nước, liên quan đến Giáo Hội, đặc biệt là giáo phận Vinh thì chiều Chủ Nhật, 3:00 chúng tôi có Thánh Lễ đặc biệt do Hội Ái Hữu Vinh tổ chức tại nhà thờ của Giáo Xứ Lộ Đức và đề tài hôm đó sẽ nói về quê hương, sẽ nói về vùng đất Vinh. Một vùng rất là nghèo nhưng mà một thi sĩ từng nói: Ngọn gió bằng đi qua thành nỗi nhớ, Cõi khô cằn ở mãi hóa yêu thương Hy vọng rằng, vùng đất khô cằn đó, vùng đất có gió Lào thường xuyên đó, dù là có thể khi gió Lào, khi khô cằn gây khó chịu, Nhưng mà khi đi xa vẫn có những nỗi nhớ, nỗi thương. Như kinh nghiệm của tôi trong thời gian ở nước ngoài, có nhiều đêm cũng thức không ngủ được, vì nhớ mông lung. Như một thi sĩ có nói: Ai có biết làm sao mà nói được, Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương Mắt có ngủ mà lòng ta vẫn thức Tình non sông da diết máu xương. Xin chân thành cám ơn. Dương Phục: Cảm ơn Cha. Cha là một Giám Mục trẻ lại là một học giả viết bao nhiêu là sách, còn là một nhà thơ nữa. Cám ơn Cha rất là nhiều đã dành cho thính giả của đài hôm nay có một cuộc phỏng vấn rất là thú vị. Chân thành chúc sức khỏe đến Cha trên con đường Cha vẫn còn hoạt động. Kính chào Cha. ĐGM Nguyễn Thái Hợp: Kính chào Anh và tất cả quý thính giả. Dương Phục: Kính chào quý thính giả. Quý vị vừa nghe buổi hội thảo của chúng tôi với Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp của Giáo Phận Vinh và đồng thời cũng là chủ tịch của Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
ảnh Bùi văn Phú
Gặp gỡ Ðức Cha Nguyễn Thái Hợp hỏi về hiện tình Việt Nam Chiều Chủ Nhật 19-6-2011 Ðức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh và cũng là Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hoà bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã có buổi gặp gỡ người Việt vùng San Jose nhân chuyến đi Hoa Kỳ công tác mục vụ.
Buổi đón tiếp Ðức Cha được Hội Ái hữu Giáo phận Vinh Bắc California tổ chức tại nhà hàng Thành Ðược với 300 người tham dự. Ban tổ chức nhận các câu hỏi từ khách, Ðức cha gom lại theo các chủ đề và đã trả lời như sau đây.
1. Tương quan giữa giáo hội và nhà nước
Trước năm 1975 tại Việt Nam chia làm hai phe và không có đối thoại mà chỉ có đối thụi, không bằng tay chân mà bằng súng ống.
Trong hoàn cảnh như vậy, Công đồng Vatican II đưa ra nguyên tắc mới là giáo hội của Chúa Kitô không được đồng hoá với một nền kinh tế, một thể chế chính trị nào. Ðường hướng của giáo hội là sống và loan báo Tin Mừng trong tất cả mọi nền chính trị, mọi hệ thống kinh tế và mọi nền văn hoá.
Chính vì vậy vấn đề đối thoại được đặt ra. Kể từ thời Ðức Gioan-Phaolô II thì đối thoại thẳng thắn, cộng tác chân thành là hướng mục vụ và Ðức Bêniđictô XVI đã coi đó là một đường hướng mà Giáo hội Việt Nam nên theo.
Nguyên tắc là vậy, còn thực tế rất khó vì xưa nay trong hàng giáo phẩm Việt Nam thực tế người cộng tác thì không đối thoại thành thật và người đối thoại thẳng thắn lên tiếng chỉ trích thì không cộng tác. Cây cầu đối thoại thẳng thắn, cộng tác chân thành thật sự chưa có vì còn mới quá.
Có người cho rằng Hội đồng Giám mục Việt Nam chỉ im lặng. Thời bao cấp thì im lặng là vàng. Nói hay chê là tù ngục nên giáo hội cứ tiếp tục như thế. Có lẽ phải chờ một thời gian nữa những người cộng tác sẽ là những người đối thoại thẳng thắn. Làm sao nối được cây cầu đối thoại, nhưng cũng phải làm sao nói lên được tiếng nói của công lí, tiếng nói của lẽ phải khi nhà nước làm không phù hợp với nhân quyền, không bảo vệ nhân phẩm. Xin quí vị cầu nguyện cho giáo hội dần dần đi theo bước đó.
2. Nhà đất và tài sản giáo hội
Tranh tụng về nhà đất chiếm đến 70% những vụ khiếu kiện. Những vụ đó không phải là của giáo hội. Người khiếu kiện hôm nay đa số là mẹ anh hùng, là những người có công với cách mạng. Ðiều này nằm ở sự bất cập của luật nhà đất hiện tại. Chưa đổi luật nhà đất thì vẫn còn khiếu kiện.
Luật nhà đất hiện nay cũng là nguồn của sự tham nhũng vì xã, huyện là những cơ quan quyết định đất thuộc về ai, ai có quyền bán đất, nhượng đất. Giáo hội cũng nằm trong bối cảnh đó nên đề nghị của chúng tôi là phải cải tiến và đổi luật nhà đất. Vấn đề như Tam Toà, Thái Hà, Dòng Chúa Cứu thế hay các nơi khác chỉ là những hậu quả. Việt Nam đã đi vào kinh tế thị trường, còn luật nhà đất vẫn là luật thời bao cấp.
3. Giáo hội và giáo dục
Tình trạng giáo dục Việt Nam không nói mọi người cũng đã rõ là chưa bao giờ xuống cấp như bây giờ. Ðiều này tôi nói công khai dù có công an ở đây tôi vẫn nói. Tôi biết có thể có vài công an ở đây [nhiều người cười]. Nhưng không sao cả vì ngày xưa họ nói thế này, trong tu đức công giáo nói khi hai người gặp nhau là có Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần ở giữa. Nhưng giữa chế độ chúng tôi đang sống, khi hai người nói chuyện với nhau thì phải ý tứ vì có thể công an nghe lóm [vỗ tay].
Nền giáo dục Việt Nam bi thảm như ngày nay và lỗi đó là lỗi ở cấu trúc. Trước đến nay Việt Nam đào tạo theo mô hình Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, lúc đó bắt buộc Việt Nam một là phá đi làm lại hay cơi nới. Mà họ không phá đi hoàn toàn mà chỉ cơi nới. Càng cơi nới nó càng dị dạng.
Nó hỏng không phải vì ở giáo trình mà hỏng ở triết trí giáo dục. Ðào tạo con người để làm gì và đào tạo con người như thế nào thì triết lí giáo dục đó không có. Tất cả đều chạy theo phong trào, chạy theo nhu cầu, chạy theo thành tích. Hỏng chỗ đó.
Vấn đề là làm sao bây giờ. Một số người nói rằng phải thay đổi cả cơ chế, cả cơ cấu. Có lẽ một số người ở đây cũng nghĩ vậy. Nhưng mà làm sao thay đổi được cơ cấu giáo dục nếu không thay đổi chính trị? Làm sao thay đổi cơ cấu chính trị thì chuyện đó không thuộc về giáo hội. Vấn đề đặt ra là khi cơ cấu chưa thay đổi và trong môi trường ô nhiễm như vậy có cách nào để làm cho giới trẻ bớt bị tác hại ô nhiễm không?
Có thể được. Ðó là làm tốt hơn những khâu nhỏ. Khi khâu nhỏ làm tốt hơn sẽ có tác động ngược lại đến cơ cấu. Vấn đề nằm ở đó và rất là nan giải. Chính vì vậy giáo hội luôn luôn lên tiếng và chính chúng tôi đã nhiều lần lên tiếng là không thể chấp nhận được trong lúc nhà nước cho những cơ quan, tổ chức ngoại quốc đến Việt Nam để mở trường và dạy chương trình ngoại quốc mà không cho các tôn giáo là những người có tâm huyết với nền giáo dục, với quê hương được mở trường. Ðó là vấn đề phải giải quyết trong tương lai. Tôi hi vọng nếu các tôn giáo được hiện diện trong các trường thì hệ thống giáo dục tương đối sẽ đỡ hơn.
Cho đến nay rất nhiều người cộng sản cũng nghĩ rằng nền giáo dục chúng ta đang bị băng hoại. Chẳng hạn như Giáo sư Hoàng Tụy, như nhóm IDS hay một số chuyên viên kinh tế cũng đang nghĩ đến vấn đề đó.
4. Toạ đàm Biển Ðông và ra mắt Ủy ban Công lý và Hoà bình
Tháng 9 năm 2009 có toạ đàm về biển Ðông do Câu lạc bộ Nguyễn Văn Bình phối hợp cùng vài nhà xuất bản tổ chức. Lúc đầu có một số giáo sư, có dân biểu Dương Trung Quốc đăng kí phát biểu. Nhà nước áp lực dẹp bỏ cuộc toạ đàm bằng nhiều cách. Công an đưa lí do không bảo đảm được an ninh. Tôi hỏi tại sao không bảo đảm được an ninh thì anh ta nói chúng tôi được tin có 5, 6 trăm sinh viên đang tụ tập và sẽ kéo đến để hô hào khẩu hiệu chống Trung Quốc và lợi dụng cơ hội để chống chính quyền, như vậy linh mục có bảo đảm được không? Tôi nói, tôi trách nhiệm trong nhà tôi, ngoài đường là của các ông. Sau đó họ lại áp lực những người phụ tá của tôi.
Cuối cùng, tháng 9.2009 chúng tôi đã làm cuộc toạ đàm đó và sau được cả nước công nhận là cuộc toạ đàm dân sự đầu tiên để quốc tế hoá vấn đề biển Ðông. Tôi nhớ trong cuộc toạ đàm có một phóng viên ở Thủ đô Washington hỏi tôi có biết tàu lạ vào biển Ðông là tàu gì không? Tôi nói đáng lẽ ông phải hỏi công an hay bộ đội biên phòng chứ còn tôi chỉ là một linh mục làm sao tôi biết mà trả lời. Nhưng anh đã hỏi thì tôi xin phép được trả lời là: “Ðối với chúng tôi, tàu mới hay tàu cũ, tàu lạ hay tàu quen, tàu to hay tàu nhỏ đều là tàu cả.” [vỗ tay]. Từ đó câu nói trên đã thành câu nói tếu và trở thành sự thật.
Tháng 5 vừa qua chúng tôi ra mắt Ủy ban Công lý và Hoà bình thì lại một lần nữa bị áp lực. Lần này khác hơn vì tôi là giám mục rồi. Có công an bộ đến đưa quà tặng tôi và xin nói chuyện về việc tổ chức lễ ra mắt. Tôi nói tôi bảo đảm, tôi nắm vững được tình hình. Họ nói không phải Ðức cha nắm vững tình hình nhưng sợ rằng trong những bài tham luận có vấn đề. Tôi nói tôi đưa cho đọc, chỗ nào có vấn đề thì cho tôi biết. Anh ta nói không phải nội dung mà là có một số người có vấn đề. Chuyện đó tôi không chấp nhận vì quan điểm giáo huấn giáo hội công giáo là không loại trừ ai vì con người đó thuộc giai cấp đó, tôn giáo đó, vì thuộc chủng tộc đó. Mà nếu ai có quan điểm không phù hợp hay có lỗi gì thì nhân danh pháp luật xử lí họ chứ không thể loại trừ tiên thiên. Chiều hôm trước đó tôi vẫn còn bị áp lực, nhưng sau mọi sự đều xong xuôi. Ðức Hồng y của Tổng Giáo phận Sài Gòn [Gioan-Baotixita Phạm Minh Mẫn] cũng đồng ý với tôi. Ngài nói công lý hoà bình là đúng, ngài cũng ủng hộ. Cuối cùng chúng tôi làm lễ ra mắt ủy ban một cách kết quả.
5. Ủy ban làm được gì
Ủy ban Công lí và Hoà bình chỉ là một ủy ban nhỏ trong Hội đồng Giám mục Việt Nam và chỉ làm được việc khi có sự tiếp tay của các giám mục sở tại. Chẳng hạn một chuyện xảy ra ở một điạ phận thì giám mục sở tại sẽ cộng tác với ủy ban để tìm cách giải quyết chứ chúng tôi không thể thay thế giám mục điạ phương.
Nhiệm vụ căn bản của chúng tôi là phổ biến giáo huấn xã hội công giáo đến các tầng lớp dân chúng, nhất là người công giáo để họ ý thức hơn sứ vụ và vai trò của mình. Ðó mới là điểm căn bản. Rồi tổ chức những hệ thống mạng lưới từ trung ương đến giáo phận, giáo hạt cũng như giáo xứ, từ đó như mầm gieo lên để người công giáo ý thức vấn đề.
Trong khi giáo hội tự bản chất không làm chính trị, không tham gia chính trị đảng phái nào, không đồng hoá với bất cứ nền chính trị nào. Nhưng đòi hỏi giáo hội phải có quan điểm về chính trị, có nhận thức về chính trị thì ủy ban giúp để có nhận thức, có quan điểm chính trị. Còn lật đổ một chính phủ để làm một chính phủ khác, chuyện đó của các ông các bà, chuyện của người khác, của giáo dân chứ không phải của giáo hội.
Sau Công đồng Vatican II, giáo hội yêu cầu các linh mục và tu sĩ không tham gia trực tiếp hoạt động chính trị. Ai tham gia phải có phép của Hội đồng Giám mục. Chính vì vậy phải hiểu có khi đòi hỏi người ta đẩy chỗ này, có khi lôi kéo người ta đi chỗ khác.
6. Về những linh mục ra ứng cử
Sau năm 1975 có những linh mục ra ứng cử. Theo giáo luật, những trường hợp đó phải có phép ngậm hay phép công khai của giám mục. Ngậm là làm sao? Ngậm là ai đó hỏi thì nói ừ đi đi, không có văn bản. Công khai thì có văn bản tôi cho phép. Còn ngậm thì ông hỏi tôi tôi bảo ừ.
Sau 1975 đa số là có phép ngậm. Nhưng tôi nghĩ trong tương lai khi tình hình tương giao giữa Vatican và Việt Nam được thể hiện thì giáo hội Việt Nam cũng nên áp dụng những biện pháp, những khoản giáo luật đã được công bố cho tất cả các nước trên thế giới, vì từ 1975 cho đến bây giờ chúng ta hiểu ngầm chúng ta là một trường hợp đặc biệt cùng áp dụng một cách đặc biệt. Trong tương lai hi vọng những chuyện đó sẽ càng ngày càng ít hơn.
7. Việc được phong giám mục
Tôi ra khỏi Việt Nam từ năm 1972 và trở lại năm 2003, như vậy mới có 8 năm sống trong nước. Có người hỏi tại sao tôi được làm giám mục mà không phải người trong nước? Câu hỏi này xin gửi sang cho Ðức Bênidictô XVI chắc ngài trả lời dễ hơn tôi.
Tôi mất hai năm rưỡi từ lúc Toà Thánh phong chức đến khi được làm giám mục vì là lần đầu tiên một người ở nước ngoài về được làm giám mục. Chắc chắn trong tương lai sẽ có nhiều linh mục ở nước ngoài về làm giám mục và thời gian sẽ ngắn hơn thời gian chờ đợi của tôi.
8. Những dự án của Giáo phận Vinh
Chương trình xây đại chủng viện và trung tâm mục vụ chi phí khoảng 4 triệu Mỹ kim. Giáo dân Vinh cũng như những người trong nước có lòng đóng góp một phần ba. Một phần ba do các cơ quan, tổ chức của Toà Thánh ở Châu Âu. Còn một phần ba nữa chúng tôi đi xin những ân nhân. Quí vị quan tâm hãy mua con heo về để dành tiền, khi cần chúng tôi sẽ gõ cửa.
9. Những điều thích và những khó khăn
Sau 10 tháng làm giám mục, nhiều khi có cái lúc đầu mình nghĩ là vui nhất thì lại là khó nhất. Còn cái mình nghĩ là khó nhất lại là vui nhất.
Chẳng hạn tôi thấy bức xúc khó chịu nhất là những đám rước dài, trống chiêng rước linh mục. Ngày tôi thụ phong giám mục, sáng hôm sau từ trước cửa vào đến sân toà giám mục có hơn 20 xe đậu sẵn với cờ quạt. Một xe đầu có hình to, xe sau có loa. Tôi nhìn kĩ lại hoá ra là hình tôi. Lúc đầu tôi thấy buồn cười vì nghĩ sao có chuyện kì cục vậy. Ðến khi tôi thấy rõ, tôi xuống la đuổi họ về vì sợ rằng nếu đi đâu cũng được rước như vậy sau này mình lại thấy thèm tiếng kèn, tiếng trống, đi đâu mà họ không rước thì mình nghĩ rằng họ khô đạo. Hoá ra họ chuẩn bị để rước tôi về làng quê của tôi để làm lễ tạ ơn. Như vậy trên 13, 14 cây số. Họ cũng ghi băng, ghi nhạc đàng hoàng để phát thanh, cũng như ở Nghệ An vẫn rước ảnh Hồ Chủ tịch đi từng làng [nhiều tiếng cười].
Vì thế tôi xuống đuổi họ về, sợ là mình sẽ nghiện tiếng kèn tiếng trống. Họ cũng vâng lời họ về. Nhưng họ vẫn nấp trên đường. Một tiếng sau tôi mới đi, khi gần đến làng họ ùa ra đón tiếp. Nhưng tấm hình và loa phát thanh thì không có nữa.
Khi vào Quảng Bình hay Hà Tĩnh họ cũng đón rước tôi nhiều khi dài cả 5, 6 cây số. Lần kia ở Quảng Bình họ đến và nói thế này: Ðức cha phải hiểu ở đây suốt bao nhiêu năm nhiều khi giáo dân không dám cắm cờ ra khỏi khuôn viên nhà thờ vì công an, vì địa phương họ cấm. Bây giờ xin cho để cắm thoải mái. Như thế họ lại có lí do khác. Tôi lại thấy vui. Thành ra cái buồn hôm trước có thể thành cái vui hôm nay.
Còn buồn nhất là không có giờ để viết sách, đọc báo. Thỉnh thoảng đọc phải đi nơi khác đọc. Tôi lúc đầu cũng ra chương trình mỗi tuần lấy một ngày nghỉ là thứ Tư, nhưng đến nay cũng chưa có được. Cái nữa là ngày xưa tôi hay đi với sinh viên có khi uống cà-phê bên đường, có khi ở khách sạn 5 sao, nên chúng tôi làm quán Lam Hồng là quán cà phê duy nhất trong một toà giám mục. Khi nào các cha, quí vị có dịp ghé thăm, xin mời đến quán cà phê của chúng tôi.
10. Chương trình giúp đỡ giáo xứ nghèo
Trận lụt vừa qua có nhiều giáo xứ bị lụt coi như tan hoang. Tôi đã di dời hẳn ba giáo xứ từ vùng ven sông lên ngọn đồi. Một số giáo xứ không có đất để di dời thì chúng tôi làm nhà vượt lũ. Trong tương lai tiếp tục di dời một số giáo xứ nữa và cũng xây lại nhà cửa cho một số nạn nhân trong trận bão lụt vừa rồi.
Còn giáo xứ nào nghèo thì Vinh nghèo lắm: “Quê tôi gạt sỏi tìm cơm. Hết mưa thôi hạn lại cơn bão gần”. Cho đến hôm nay Vinh vẫn là vùng đất nghèo. Nếu quí vị nào về tôi sẽ đưa điạ chỉ rõ rệt, nơi nào nghèo, nơi nào giầu. Nhiều tiền tôi đưa đến nhiều giáo xứ.
Các buổi tiếp xúc giữa chức sắc công giáo trong nước ra thăm giáo dân hải ngoại thường có không khí trang nghiêm. Nhưng cuộc gặp gỡ với Giám mục Nguyễn Thái Hợp khác hẳn vì tính tình cởi mở, không nghi thức trong cách trả lời và nhiều lúc Ðức cha còn nói vui làm mọi người cười vang.
Một người đưa câu hỏi Ðức cha có dự định đi chơi Las Vegas ông sẽ bao mọi thứ, câu trả lời dí dỏm của Giám mục Nguyễn Thái Hợp đã tạo nên nhiều tiếng cười, rồi ngài cho biết sẽ đi Las Vegas, nhưng không phải đi chơi mà thăm một người cháu ruột sống ở đó.
Với tinh thần cởi mở và chủ trương dấn thân, đem đạo vào đời để thể hiện Phúc âm như đã được nhấn mạnh trong sách: “Một cái nhìn về giáo huấn xã hội Công giáo” [Nxb Phương Ðông 2010] của ngài, nhiều người hi vọng Ðức cha sẽ đem đến cho giáo hội nói riêng và đất nước nói chung những sinh động. -- Bùi Văn Phú tổng hợp
(bản dịch của Thùy Dương)
A MEETING WITH BISHOP NGUYEN ABOUT THE SITUATION IN VIETNAM
Bishop Nguyen Thai Hop: "[T]he overturning of a government to make another, that is the business of the lay men and women, not of the clergy." Bishop Paul Nguyen Thai Hop, Bishop of the Diocese of Vinh and also the Chairman of the Justice and Peace Commission of the Bishops' Conference of Vietnam, had a reception with Vietnamese people in the San Jose area during his pastoral trip to the U.S. A reception was organized by the Fellowship of Vinh Diocese of Northern California at the Thanh Duoc restaurant with more than 300 participants. The organizing committee took questions from guests, grouped by subject and answered as follows: 1. Correlation between Church and state Before 1975 Vietnam was divided into two camps there was no dialogue, only conflict, and not with hands and feet but with guns. In such circumstances, the Second Vatican Council made new rules that the church of Christ does not identify with any economic system or any political institution. The direction of the church is to exist and spread the Gospel in all political environments, all economic systems and all cultures. Therefore the issues for dialogue are laid out. Since the time of Pope John Paul II, clear dialogue and sincere work has been the direction and mission and Pope Benedict XVI considers it the direction that the Church in Vietnam should follow. Such is the principle, while in practical terms it is very difficult because the clergy in Vietnam are not those who use honest dialogue, while those with critical viewpoints are excluded from the work. The bridge of clear dialogue and sincere collaboration are nonexistent concepts because they are still too new. Some say Vietnam's Episcopal Council only remains silent. During the subsidized period, silence was golden. To speak up or to criticize meant prison, so the church continued as usual. Perhaps it will take a period of time before such collaborators will have sincere dialogue. How can we build a bridge of dialogue, while bringing the voices of justice and common sense, if the government is incompatible with human rights and does not protect human dignity. Please pray for the church to lead the people in this path. 2. Land and assets of the Church Litigation on real estate accounted for 70% of complaints. But that issue is not of the church. The petitioners today are mostly the mothers of the war heroes, of those who have contributed to the revolution. This is rooted in the shortcomings of current property laws. These complaints will exist as long as there is no change in property law. Current property law is also a source of corruption because the commune and district authorities decided that the land belongs to anyone who has the right to sell land or lands. Church is also included in that context, so our suggestion is to improve and change the property laws. The problems of Tam Toa, Thai Ha, and the Dong Chua Cuu The (Congregation of the Most Holy Redeemer) or other areas are such consequences. Vietnam has entered a market economy, but the property laws are from the time of government subsidy involvement. 3. Church and education It goes without saying that the state of Vietnam's education has never been as degraded as now. This I say openly, and would say even if the police were present. I know perhaps there are a few police here [many audience members laugh]. But that's okay because long ago they said this – in the Catholic scripture it is said that when two people meet, there is Jesus and the Holy Spirit present in between. But in the regime in which we are living, when two people are talking, they have to be cautious about the police eavesdropping [audience applause]. Education in Vietnam is in a sad state and its error lies in its structure. Vietnam has up until this point trained under the Soviet model. When the Soviet Union collapsed, Vietnam was forced to either demolished and remake it or maintained and expanded more of the same. And they did not break away completely but rather maintained and expanded more of the same. The more that is done, the more malformed the system becomes. The shortcomings are not within the curriculum but within the educational philosophy. Training people to do, but not training people regarding the philosophy of education. Everything is in pursuit of the trends, in pursuit of achievement. That is the shortcoming. The problem is what to do now. Some say we must change both the mechanism and the structure. Perhaps some people here also think so. But how to change the structure of education without political change? How to change the political structure is not the business of the church. The problem is, when the structure has not been changed and the learning environment is polluted as such, is there a way to reduce the damage to our youth by that pollution? Perhaps we can. That would be to improve small scale. With small improvements it will have positive impact on the structure. A puzzling problem remains. Because of that, the church has always voiced its opinion and I myself have spoken up about this, we do not agree that the state allows agencies and overseas organizations to open schools and teach abroad programs in Vietnam – and yet does not allow religious institutions with their dedication to education to open schools in country. That issue must be resolved in the future. I hope that if religion is present in schools, the education system will be relatively better. So far, a lot of communists also think the education system is corrupt. Such as Professor Hoang Tuy, such as IDS or a number of economic experts who are also thinking about the problem. 4. Eastern Sea (Biển Đông) talks and the launch of the Justice and Peace Commission -- Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình In September 2009 there were talks about the Eastern Sea with the Nguyen Van Binh Club, in cooperation with several organizations and publishers. At first there were a number of teachers, and representative Duong Trung Quoc signed up to share their opinion. The state put pressure in several ways toward shutting down these talks. Police said there was too much risk for them to guarantee event security. I asked why the couldn't, and the man said, we've reason to believe that five, six hundred students would gather and shout slogans against China then take advantage of the opportunity to oppose the government as well, and would the priests be able to promise otherwise? I said, I will take responsibility within my house, while the streets were his. Then they put pressure on my staff. In the end, we did the September 2009 talks and it was nationally recognized as the first civilian talks to internationalize the Eastern Sea issue. I remember in the talks, a reporter from Washington, D.C., asked me if I knew of these strange vessels coming into the Eastern Sea? I said he ought to ask the police or border patrol, and that as a priest, how would I know to answer? But he did ask, so I would like to respond: "For us, new or old Tàu (vessels), friendly or strange vessels, large or small vessels, they're all Tàu (Chinese) anyway" [applause]. It was just a joke but it has become true. This past May, we launched the Justice and Peace Commission and were once again under pressure. This time was different because I was bishop by then. The police came to bring a gift and asked to talk about the opening event. I assured them that I grasped the situation well. They said the problem wasn't with me but rather with the content of the presentations. I said I'd give them copies to read, and wherever there was a problem, if they could let me know. The man said the problem wasn't with the content but with some of the people. That I would not accept because the teachings of the Catholic Church do not exclude anyone according to their class, religion, or race. And if anyone has inappropriate opinions or faults, it would have to be legal action and not exclusion by the church. By the evening preceding the event, I was still under pressure, but it was all over in the end. The Cardinal of the Archdiocese of Saigon [John-the-Baptist Pham Minh Man] also agreed with me. He said the peace process is correct, and he was in support. In the end we did the opening ceremony in a settled way. 5. What can the Commission do? The Justice and Peace Committee is only a small committee within the Bishops' Conference of Vietnam and can only perform tasks with the help of the local bishop. For example if an incident occurs in a certain area, the local bishop will work with the committee to find solutions but the committee cannot replace the local bishop in this capacity. Our basic mission is to distribute the Catholic social teaching to all classes of people, especially to Catholics so they may be more aware of their own mission and role. That is the basic point. And then to organize networks connecting the central to the dioceses and parishes, so as to sow seeds so that Catholics may be aware of the issues. The church is not essentially political, does not participate in any political party, not identified with any political background. But requiring the church to have political views and awareness, the committee helps us to realize, has the essence of politics. And as for the overturning of a government to make another, that is the business of the lay men and women, not of the clergy. Since Vatican II, the church requests clergy and the orders to not take direct part in political activity. Those who take part must have permission from the Council of Bishops. Therefore, we must understand that sometimes there is opposition here; sometimes people have to be pulled away. 6. Regarding clergy who run for office Since 1975 there have been clergy running for office. Under canon law, such cases require either the silent or public permission from the bishop. What is meant by silent? is if someone asks about it, you just give an affirmative and there is nothing written down. Public would be a written permission. Silent is where one asks the other verbally and the other says yes. After 1975 it was mostly informal permissions. But I think, in the future, as the relationship between the Vatican and Vietnam develops, the church in Vietnam should apply these measures and passages of canon law that have been issued for all countries in the world, because after 1975, it has been implied that we are a special exception to the rule. Hopefully such things will happen less in the future. 7. The installation of the Bishop I left Vietnam in 1972 and returned in 2003, and so I have only had 8 years of living in-country. Someone had asked why I could be bishop even without having really lived here. I would refer this question to Pope Benedict XVI, perhaps he'll have a better answer than myself. There was a two-and-a-half-year transition time between my ordination at the Holy See to the actual time of becoming bishop because this was the first time a bishop had come in from an outside country. Surely the future will see more foreign priests as bishops and the wait time will be shorter than my own. 8. Projects of the Vinh Diocese Plans to build the seminary and pastoral center gave a projected cost of about $4 million. Vinh's parishioners as well as other citizens contributed one third of that. Another third came from agencies and organizations of the Holy See in Europe. The third part we seek from donors. For those of you who are concerned, please buy a piggy bank and save money, and when the time comes we will knock on your door. 9. Things we like, and things we find difficult After 10 months as bishop, there were many times we would expect the most fun but they turn out to be the most difficult. And that which we expect to be most difficult turns out to be most fun. For example, the thing I find most frustrating is the long procession, processions of priests with gong and drum. The morning-after the day I was ordained a bishop, stretching from the entrance to the bishop's court was a 20-parked-car procession with flags and fans. The first in line had a large photo, and a car behind it had speakers. I looked closely and realized it was a picture of me. At first I thought it was funny and wondered because it was ridiculous. When I could see it clearly, I came out and yelled that they should go home because I was afraid that if this procession went everywhere I did, I would grow accustomed to expect this kind of fanfare and find it weird if it was absent. It turns out they were preparing to bring me back to my home village for a celebration of thanks. And so that would be 13, 14 kilometers. They were also videotaping, recording music appropriate for broadcast, like in Nghe An the way they brought the photo of Chairman Ho to each village [much audience laughter]. For that reason I went to tell them to go home, afraid I'd get addicted to the fanfare. They honored my request and went home. But they still hid along the road. It was only an hour later that I left, and when I had almost arrived at the village, they rushed in to receive me. But without the pictures and speakers. When coming to Quang Binh or Ha Tinh, sometimes the welcome procession was 5 or 6 kilometers. The other time at Quang Binh they came and said this: Bishop, please understand that all these years we have been afraid to even place a flag outside of the church property for fear of police, because of local laws prohibiting it. Now we request to freely put it up. So this was another reason. I was happy. A sadness from a previous day becomes a joy of today. And the saddest thing is to not have time to write books or read newspapers. Sometimes I have to go elsewhere to read. At first I set out a schedule for myself to take Wednesday as a day of rest every week but so far that has not worked out. Another thing is that I used to take coffee with students at a roadside cafe, sometimes at a five-star hotel, so we started Lam Hong as the only cafe in an episcopal center. When you get a chance to visit, please come visit our cafe. 10. Program(s) to help poor parishes The recent flooding has left many parishes pretty much destroyed. I've completely moved three parishes from along the river to locations on the hill. Some parishes have no land to which to relocate, so we made housing. In the future we'll continue to move some more parishes and rebuild homes for some victims of the recent flooding. And when we talk about poor parishes, Vinh is a very poor one: "My country digs through stones looking for rice. When the rainy period is over, near comes the storm." To this day Vinh is still a poor area. If any of you go to visit, I will give you the exact addresses, which areas are poor and which are well-to-do. With a lot of money we can help many parishes. When Catholic clergy in the country take trips to visit overseas churchgoers, often there is an atmosphere of seriousness. But the meeting with Bishop Nguyen Thai Hop was clearly different because of the openness and transparency of his answers and oftentimes the Bishop also told jokes that made people laugh. One person offered to cover expenses if the Bishop wanted to go to Las Vegas, to which Bishop Nguyen Thai Hop's witty response generated a lot of laughter, as he said he would go to Las Vegas, not for fun but to visit a niece or nephew currently living there. In the spirit of openness and a policy of engagement, bringing religion into everyday life to proclaim the Gospel that is emphasized in his book, A Look at Catholic Social Teaching [published by Phuong Dong in 2010], many people had hopes that the Bishop will bring to his diocese, specifically, and to the country, in general, a sense of liveliness.
Translated by Thuy-Dzuong Nguyen
Highlights: Meeting with Bishop Nguyen Thai Hop about the situation in Vietnam (USA July 2011) 1. Correlation between church and state ■ "How can we build a bridge of dialogue, while bringing the voices of justice and common sense, if the [Vietnamese] government is incompatible with human rights and does not protect human dignity"? 2. Land and assets of the church ■ Outdated property laws are the root cause of the issues in Tam Toa, Thai Ha, and the Dong Chua Cuu The, and litigation on real estate 3. Church and education ■ The shortcomings in the corrupt education system are not of the curriculum, but of the loss of educational philosophy. This can also be helped by allowing religious orders to open private schools. 4. Eastern Sea talks and the launch of the Justice and Peace Commission ■ "...nationally recognized as the first civilian talks to internationalize the Eastern Sea issue" ■ Also, the launch did not take place without some pressure from the government. 5. What can the commission do? ■ "The Justice and Peace Committee is only a small committee within the Bishops' Conference of Vietnam and can only perform tasks with the help of the local bishop." ■ "The church is not essentially political, does not participate in any political party, not identified with any political background.....And as for the overturning of a government to make another, that is the business of the lay men and women, not of the clergy." 6. Regarding clergy who run for office ■ Vietnam should not be an exception to canon law, in letting clergy run for office so easily. 7. The installation of the bishop ■ There was a two-year wait to have me installed as bishop because I originally moved from an outside country. Surely this will change for future bishops. 8. Projects of the Vinh Diocese ■ seminary and pastoral center projected cost: about $4 million. ■ breakdown and appeal for donations 9. Things we like, and things we find difficult ■ "After 10 months as bishop, there were many times we would expect the most fun but they turn out to be the most difficult. And that which we expect to be most difficult turns out to be most fun." (anecdotes) 10. Program(s) to help poor parishes ■ Recent flooding has destroyed many parishes, and we continue to rebuild or relocate them.
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp (bên phải) và phái viên Trần Hiếu trong cuộc phỏng vấn - ảnh do Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân cung cấp.
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: “Viên đạn cần bắn lúc này là sự đoàn kết dân tộc” Chủ nhật, 26 Tháng 6 2011 16:56
LTS: Tòa soạn Viễn Đông nhận được bài phỏng vấn Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, do phái viên Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân thực hiện. Nhận thấy tính thời sự của bài này, nhật báo Viễn Đông xin được giới thiệu cùng quý độc giả.
Lời giới thiệu của NS. Diễn Đàn Giáo Dân: Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, O.P., Giám Mục Giáo Phận Vinh, Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Chủ Nhiệm Câu Lạc Bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình, trong dịp viếng thăm tín hữu và thân hữu tại Hoa Kỳ vào mùa Hè 2011, đã trả lời một số câu hỏi liên quan đến cuộc tranh chấp Biển Đông, một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với người Việt trong cũng như ngoài nước. Mời bạn đọc theo dõi bài phỏng vấn do bạn Trần Hiếu thực hiện sau đây.
Trần Hiếu: Thưa Đức cha, với cương vị là chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Nguyễn Văn Bình và hiện là Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha đã từng tổ chức các cuộc tọa đàm về nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề Biển Đông. Hiện nay, vấn đề Biển Đông có nguy cơ đối đầu quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc, xin Đức cha cho biết nhận định về tình hình Biển Đông như thế nào? Đức cha Nguyễn Thái Hợp: Biển Đông xưa nay vẫn nổi sóng, nhưng mà chưa bao giờ nổi sóng một cách ghê sợ và đầy nguy cơ như trong thời gian qua. Một lần nữa dân tộc chúng ta đang đối đầu với ý đồ xâm lăng rất rõ rệt và trắng trợn của Trung Quốc. Chúng ta đang ở trong một giai đoạn lịch sử rất nguy hiểm cho tiền đồ tổ quốc nếu chúng ta không biết ứng xử và không vận dụng được sức dân cũng như sức mạnh của quốc tế nhằm giải quyết vấn đề. Càng ngày ý đồ của TQ càng rõ, thành thử đây không phải là thời điểm để cứ lặp đi lặp lại mười sáu chữ vàng trong tương quan giữa TQ với Việt Nam như xưa nay người ta vẫn làm. Và cũng không thể chỉ dừng lại ở đối thoại song phương với TQ.
TH: Đức cha thấy phản ứng của nhà cầm quyền Việt Nam trước hiểm hoạ xâm lăng của TQ đã đúng mức chưa? Nhà nước VN cần phải làm gì hơn để đối phó tình trạng nầy nhằm bảo vệ lãnh thổ của cha ông? Đức cha NTH: Nhìn lại lịch sử VN thì ta thấy xưa nay tổ tiên khi đối đầu với TQ thì dùng cả cương lẫn nhu, như những trận đánh lớn thời Lý Thường Kiệt, hay thời Quang Trung, sau khi mình thắng mình phải dùng chính trị hòa giải. Dĩ nhiên mỗi chính quyền có sách lược riêng. Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan, đối diện với những gì nhà nước thực hiện cho đến hôm nay thì chúng ta phải đau lòng mà nói rằng chưa đúng mức. Điều quan trọng lúc nầy là để đối đầu trên Biển Đông với TQ hùng cường và ranh mãnh thì đối thoại song phương không đủ mà cần phải quốc tế hóa vấn đề, cần phải liên kết với các nước khác, không chỉ giới hạn tại Đông Nam Á (ASEAN) mà cả các nước khác trên thế giới, đặc biệt các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, và Nga nữa. Thế giới cần thấy rõ hơn TQ đang muốn gì và TQ sẽ trở thành như thế nào. Phải chăng đó là một nước phát triển nhưng đồng thời cũng là hiểm họa cho tương lai chăng?
TH: Gần đây VN tập trận bắn đạn thật, TQ cũng phô trương sức mạnh quân sự, nhưng trước sự việc VN tập trận họ cho rằng đó là hành vi khiêu khích. Đức cha có nghĩ rằng với một cuộc tranh chấp quân sự, hậu quả đối với VN sẽ như thế nào? Đức cha NTH: Việc tranh chấp quân sự giữa VN và TQ hôm nay là một mối lo. Có người cũng nghĩ rằng TQ đang mong VN bắn phát súng đầu tiên để rồi nhân cơ hội đó, đánh chiếm cả vùng Biển Đông. VN tập trận với bắn đạn thật là một cách để phô trương lực lượng. Nhưng tôi nghĩ viên đạn mà chúng ta cần bắn lúc nầy là sự đoàn kết dân tộc. Có lẽ đây là một thời cơ quan trọng để tất cả những người Việt chúng ta, ở trong cũng như ngoài nước, bất phân biệt chính kiến ý thức hệ, đặc biệt nhà cầm quyền, những người có trách nhiệm với tiền đồ dân tộc, cần đoàn kết để giúp dân tộc đối đầu với một người láng giềng xưa nay vẫn âm mưu xâm chiếm đất nước chúng ta.
Tôi nghĩ rằng bắn những viên đạn thật để giương oai thì mình làm sao bằng những viên đạn của TQ. Nhưng chúng ta có những viên đạn chính nghĩa khác, đó là những sự kiện lịch sử, là ảnh hưởng quốc tế, là những nước bên cạnh chúng ta, cũng đang đứng trước cái hiểm hoạ xâm lăng của TQ. Ngoài những nước thuộc khối ASIAN ra, các nước như Nhật, Đại Hàn, Mỹ… cũng cảm thấy mình bị liên lụy trước nguy cơ Biển Đông biến thành một cái ao nhà của TQ.
TH: Nói đến vấn đề liên kết giữa những người Việt trong cũng như ngoài nước trước hiểm hoạ nầy, Đức cha nghĩ chúng ta phải làm gì? Đức cha NTH: Tôi nghĩ người trong cũng như ngoài nước cần phải làm nhiều hơn nữa. Tôi cũng thấy ngạc nhiên là tại sao TQ họ sử dụng xã hội dân sự và cổ võ rộng rãi quan điểm của xã hội dân sự để phê phán quan điểm của VN. Mỗi lần VN khiếu nại các vi phạm lãnh hải, thì họ nói đó là các phản ứng của dân chúng, trong khi đó khi người dân Việt mình muốn bày tỏ quan điểm, một cách ôn hòa thôi, thì dường như nhà nước nửa muốn nửa không. Có lẽ nhà nước lo một cái gì khác ngoài cái lo hiểm họa TQ chăng?
Đối với đồng bào của chúng ta ở khắp nơi trên thế giới, tôi nghĩ rằng, đây là lúc chúng ta cần dịch các tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi trên Internet. Cũng có thể có những cuộc biểu tình trước Sứ Quán TQ tại hải ngoại để nói cho họ biết quan điểm của chúng ta và nhân dân chúng ta sẽ làm và phản ứng ra sao trước cái mưu đồ và kế hoạch xâm lược của TQ. Khi chúng tôi đã tổ chức cuộc hội thảo chuyên đề về Biển Đông, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn và cản trở. Hôm nay người ta thấy cuộc hội thảo đó là hữu ích nhưng vẫn chưa đủ. Chính vì vậy chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc tọa đàm nữa về vấn đề chủ quyền VN trên Biển Đông.
TH: Vào lúc nào, thưa Đức cha? Và để nhắm mục đích gì? Đức cha NTH: Có thể vào tháng 9. Nhằm để đọc lại lịch sử của TQ. TQ đề cập đến Trường Sa và Hoàng Sa lúc nào? Cổ sử cũng như lịch sử hiện đại của TQ nói đến vấn đề này như thế nào? Nói một cách tóm tắt thì từ năm 1905 TQ mới bắt đầu nói đến (Biển Nam Hải) Trường Sa và Hoàng Sa. Trong khi đó, ngay từ thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn chúng ta có nhiều tài liệu lịch sử về các đảo này và cả những đội binh.
Ngay cả thời thực dân Pháp họ cũng bảo vệ biển của chúng ta và coi VN có chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ của Taberd gọi Hoàng Sa là đảo Cát Vàng, một danh xưng thuần Nôm. Một thành viên trong Câu Lạc Bộ Nguyễn Văn Bình chúng tôi còn giữ rất nhiều tài liệu, bản đồ của VN, bản đồ các nhà truyền giáo và bản đồ quốc tế nói về chủ quyền của chúng ta trên Hoàng Sa và Trường Sa.
TH: Về vấn đề đa phương, Đức cha có nghĩ rằng thực sự HK dám dính vào vấn đề một cách sâu rộng không? Vì lợi ích của họ đối với TQ quá to lớn! Đức cha NTH: Lịch sử cho chúng ta thấy Hoa Kỳ cũng như tất cả các nước đều hành động theo các lợi ích riêng của họ. Những chuyện xảy ra thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Đệ Nhị Cộng Hòa cũng như ở Hàn Quốc thời Lý Thừa Vãn, hay Massasay ở Phi Luật Tân… đều cho thấy rõ.
Tôi không lạc quan nghĩ rằng Hoa Kỳ can thiệp một cách quảng đại vì lợi ích của người khác. Tôi vẫn dè đặt trước những đề nghị về sự can thiệp của Hoa Kỳ. Nhưng tôi thiết nghĩ trong cái thế liên hoàn, nếu TQ thực hiện chủ trương cái đường Lưỡi Bò hay còn gọi là đường Chín Khúc, và biến Biển Đông thành ao nhà của mình thì không những VN, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei, Indo, Thái Lan và các nước ở Đông Nam Á mà cả Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đại Hàn… cũng đều bị ảnh hưởng vì khi đi qua đó là như đi vào lãnh thổ của TQ.
Riêng đối với VN khi ra khỏi ngưỡng cửa của mình là đã như đi vào lãnh thổ của người khác và như vậy chuyện đánh cá, làm ăn cho các thế hệ tương lai sẽ khó khăn. Trong bối cảnh đó, cần có sự can thiệp của HK và các nước khác. Tôi không nghĩ rằng nó sẽ dẫn tới một cuộc thế chiến mà cũng không mong như vậy. Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, nhưng chúng ta phải dùng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế cũng như ngoại giao để ngăn chặn cái ý đồ xâm lăng đó. Để được như vậy, việc động viên sức lực của các nước trong khu vực, đặc biệt là của các nước lớn, là điều cần thiết.
TH: Đức cha có điều gì để nói thêm? Đức cha NTH: Chúng tôi trong nước đã cố gắng làm và tiếp tục làm qua liên kết, hội thảo, xuống đường, nhưng chúng tôi có quá nhiều giới hạn để bày tỏ quan điểm của mình. Nhưng quý vị ở hải ngoại, quý vị có nhiều tự do và nhiều khả năng để nói lên tiếng nói của dân tộc. Ở đây không những chỉ là vấn đề Biển Đông, mà còn liên hệ đến các vấn đề khác như biên giới, rừng VN. Tại sao lại cho thuê rừng, nhất là khi những người thuê rừng đó lại là TQ. Rồi mỏ quặng nữa. Nhiều đoàn xe Trung Quốc cứ nườm nượp chở quặng của VN về TQ, thì tài sản quốc gia còn gì nữa!
Vì vậy đây là lúc mà chúng ta nên nhìn lại cái tương quan của mình với người láng giềng phương Bắc và nhìn lại những gì họ nói và những gì họ làm. Họ nói một đàng làm một nẻo. TQ cứ nói đến cái công hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng để coi như là VN đã nhường cái chủ quyền đó cho TQ vào cuối thập niên 1950 và cũng coi như nhà cầm quyền VN đã chấp nhận mấy đảo đó là của TQ.
Thực ra, thì TQ, Hoa Kỳ và các nước khác đều nhìn nhận hiệp định Geneva 1954 và với hiệp định nầy thì các đảo dưới vĩ tuyến 17 đều thuộc quyền chính phủ VNCH, chứ không phải là của Miền Bắc. Chính vì vậy mà quân đội VNCH đã anh dũng bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa cho đến giờ phút cuối cùng vào năm 1974.
Do đó công hàm của cựu Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nói ở trên không có giá trị pháp lý nào cả. Ngoài ra, yêu sách chủ quyền của TQ theo đường Lưỡi Bò hoàn toàn đi ngược lại Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Tôi tin rằng lúc nầy là một cơ hội tốt để xây dựng tình đoàn kết dân tộc. Ước mong rằng nhà nước sẽ không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này. Cũng ước mong rằng người dân Việt biết vận dụng sức mạnh quần chúng, ảnh hưởng ngoại giao và dư luận quốc tế trong thời toàn cầu hóa này như những vũ khí thích hợp hầu đưa dân tộc ra khỏi nguy cơ bị Bắc phương xâm lược.
Trần Hiếu: Thay mặt nhóm chủ trương nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân, xin cám ơn Đức cha đã dành cho cuộc phỏng vấn hữu ích này. Nguyện xin Chúa Kitô, qua lời chuyển cầu của Trinh nữ Maria La Vang và Thánh Bổn Mạng Phaolô, luôn đồng hành với Đức cha trong khi lèo lái Ủy Ban Công Lý và Hoà Bình của HĐGMVN trong giai đoạn khó khăn hiện tại.
CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ (ĐỂ HỌ LỚN LÊN)
GM Nguyễn Thái Hợp Mục đích của việc đào tạo đời sống tâm linh là giúp người thụ huấn can đảm “bước theo Đức Kitô” và có khả năng “biểu dương Ngài ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như cho lương dân : biểu dương Đức Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Trời cho dân chúng, hay cứu chữa những người đau yếu tật nguyền, hoặc giúp các tội nhân trở lại đời sống sung mãn, hay đang chúc phúc cho các trẻ em, ban ôn lành cho mọi người, và luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha” [172]... cho đến chết, và “chết trên thập giá để cứu chuộc và thánh hoá nhân loại” [173].
Dĩ nhiên, Kitô giáo không bao giờ đồng hóa với bất cứ thứ “masochisme” nào. Điểm tới của Kitô giáo không phải là thứ 6 Tuần Thánh mà là Chúa nhật Phục sinh, nhưng con đường sống lại vinh quang bó buộc phải đi ngang qua ngày thứ 6 khổ lụy đó. Hình như không còn con đường tắt nào khác, mà vàng bóng thập giá. Ngay cả trên tay chân Đức Kitô Phục sinh vẫn còn in đậm những dấu đinh. Chắc chắn thập giá sẽ mang một dấu ấn và một ý nghĩa đặc biệt trong cuộc sống tu trì.
1. Đấng Mesia đau khổ
Một sự kiện hiển nhiên mà ai cũng nhìn thấy khi nghiên cứu cuộc đời của Đức Giêsu đó là Ngài không bao giờ lấy bản thân mình làm đê tài rao giảng và mục đích của hoạt động. Mối bận tâm của Ngài trong suốt cuộc đời dương thế vẫn là rao giảng về Nước Trời và thực thi chương trình cứu độ của Chúa Cha. Đó là hai trục chính của Tin Mừng. Dĩ nhiên đây là hai thực tại khác biệt, nhưng bổ túc và làm sáng tỏ cho nhau. Thật thế, quan điểm của Đức Giêsu về “Nước Trời làm sáng tỏ căn tính của Thiên Chúa như là Cha (Abba) và tư cách làm Cha của Thiên Chúa đặt nền tảng và là căn tính của Nước Trời” [174].
Trước kỷ nguyên Kitô giáo, niềm đợi trông “Triều đại Thiên Chúa” và “phong trào Messia” được biểu lộ dưới nhiều dạng thức khác nhau. Theo nghĩa đen, đây là một phong trào phát xuất từ niềm đợi trông sự xuất hiện của Đấng Thiên sai để khai mở “Triều đại Thiên Chúa”. Vào thời đại Đức Giêsu, phong trào này trở thành sôi động và ảnh hưởng sâu đậm trên nếp nghĩ, cũng như cách sống đạo của nhiều người. Bên cạnh nhóm Biệt phái, phái Sa-đốc và Esseni, còn có những phong trào dân dã được thành lập nhằm mục đích bảo về tôn giáo và giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của người Roma. Cuối cùng phải kể thêm trào lưu khải huyền sử dụng hình thức văn chương để mạc khải những bí mật trong chương trình của Thiên Chúa, đặc biệt những gì liên hệ đến ngày tận thế.
Mặc dù các nhóm này có những chủ trương và đường lối khác nhau, nhưng đồng nhất ở xác tín căn bản : Đấng Mesia là một thủ lãnh được xức dầu để phục hưng xứ sở, một vị vụa chiến thắng, lãnh nhận uy quyền nơi Thiên Chúa để thiết lập một thời đại mới. Nhóm Biệt phái chủ trương cần hoán cải cuộc sống và nhiệt thành tuân giữ Lề luật để Thiên Chúa mau giải phóng dân tộc. Nhóm Esseni còn đi xa hơn trong cố gắng hoàn thiện và đời sống khổ hạnh làm như một chuẩn bị cần thiết cho thời đại Đấng Messia. Nhóm Nhiệt thành, trái lại, chủ trương dùng võ lực để lật đổ chính quyền Roma tại Palestin và thiết lập một kỷ nguyên mới [175].
Cùng chia sẻ nỗi âu lo, niềm hy vọng và những thách đố của dân tộc, Đức Giêsu phần nào cũng chịu ảnh hưởng của các trào lưu xã hội và tôn giáo ở thời đại đó, đặc biệt trào lưu khải huyền. Chính trong bối cảnh xã hội và tôn giáo đó, Ngài rao giảng về Nước trời đang đến. Trình thuật Tin Mừng nhấn mạnh sự kiện Đức Giêsu thuộc dòng dõi Đavít, sinh ra tại Bêlem, một thị trấn của chi tộc Đavít (Mt 1,1 ; 2,1 ; Lc 2,4).
Vương quyền của Ngài được đặc biệt nhắc đến khi Ngài vào thành Giêrusalem trước tiếng hoan hô của dân chúng và khi ông Philatô giới thiệu Ngài với dân chúng : “Đây là vụa các ngươi” (Ga 19,14). Nhưng chỉ lúc Ngài chết nhục nhã và thê thảm trên thập giá, vàương quyền đó mới thực sự được tuyên xưng. Thánh sử Mathêu ghi rõ : “Phía trên đầu Ngài, người ta đóng bản án xử tội viết rằng : Người này là Giêsu, vụa dân Do thái” (Mt 27,37).
Đức Giêsu là Đấng Mesia mà dân tộc Do thái hằng mong đợi suốt bao thế kỷ. Tuy nhiên, Ngài đã thận trọng để không đồng hóa với hình ảnh một Đấng Mesia đã bị “chính trị hóa”. Trái với xác tín của nhiều người về hình ảnh một Đấng Mesia chiến thắng bằng sức mạnh và uy quyền, Đức Giêsu đã khai mở một con đường cứu độ qua khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục. Nơi Ngài, sứ vụ Mesia và thân phận đau thương hình như đã quyện lẫn với nhau, đúng như ngôn sứ Isaia đã diễn tả một cách thật sắc nét trong “Bài ca về Người Tôi tớ” (Is 52,13– 53,12).
Ngài là người Tôi Tớ trung tín của Giavề “bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt” (Is.53,8). “Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng” (Is. 53,7). Đặc biệt, Ngài tuyệt đối chối từ mọi hình thức sử dụng bạo lực để thiết lập Nước Thiên Chúa.
Giữa hoàn cảnh bất công và bạo động, Ngài đã từ chối trở nên nguyên nhân của bạo động, với nguy cơ thần thánh hóa vụ lực, để chấp nhận làm nạn nhân của chính bạo lực, ngõ hầu chia sẻ và đồng hành với các nạn nhân của bạo lực. Nhưng chính qua cái chết ô nhục của một tử tội, với thân thể trần truồng và hai bàn tay bị đóng chặt vào thập giá, Ngài đã chiến thắng cả tội lỗi lẫn cái chết.
Trong thơ gởi giáo đoàn Philiphê, thánh Phaolô đã ghi lại bản văn cựu trào nhất của Kitô giáo, có lẽ xuất hiện vào những năm 50, để tuyên xưng Đức Giêsu–Kitô là Chúa :
“Đức Giêsu–Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, Trên trời lẫn dưới đất và trong nơi âm phủ, Muôn vật phải bái quỳ ; Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng : Đức Giêsu–Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11). Như vậy, Nước Trời là một hồng ân, một tặng vật tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta có thể cầu xin, chứ không mong dùng sức lực của con người để chiếm đoạt, cũng chẳng có “đốt giai đoạn” để Nước Thiên Chúa mau tới. Tuy nhiên, hồng ân của Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người biết sám hối, từ bỏ những gì tương phản với sứ điệp tình thương và can đảm bước theo Đức Giêsu – Kitô. Hình ảnh Đấng Mesia đau khổ nơi Đức Giêsu nói lên một điểm độc sáng của Kitô giáo : Thiên Chúa của Đức Giêsu không hù dọa hay ép buộc một ai, Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng sự tự do và chọn lựa của họ. Đặc biệt Ngài chia sẻ với anh em nhân loại mọi cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và chính cái chết.
2- Con đường Thập giá
Đức Kitô thẳng thắn tuyên bố : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vàc thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt. 16,24-25). Không thể thực sự bước theo Đức Kitô, nếu không đảm nhiệm con đường thập giá và khổ chế tự nguyện. Tất cả những cái gọi là con đường tắt, cuối cùng đều sẽ chẳng dẫn đến đâu, bởi vì người môn đệ đích thực phải là người bước đi trên con đường Thập Giá và theo Thầy cho đến đồi Calvề.
Thập Giá đã in sâu và gắn chặt với Đức Giêsu – Kitô. Ngay cả sau khi Ngài đã sống lại vinh quang, thì các dấu vềt thương tích của thập giá vẫn hiển hiện và vẫn không bị xóa nhòa [176].
Trong tư cách là những người phụ trách huấn luyện, chúng ta không nên tránh né Thập giá, trái lại phải giúp các thụ huấn sinh thực sự đối diện với thách đố của Thập giá. Đừng bao giờ tìm cách che chắn cho các em khỏi phải lãnh nhận Thập giá. Thái độ bao che này có nguy cơ nuôi dưỡng nơi các thụ huấn sinh một “tình cảm uỷ mị, thích được chiều chuộng và một cuộc sống dễ dãi”. Kết quả tai hại là rất có thể họ sẽ tìm kiếm chính mình nơi Thiên Chúa, chứ không phải tìm kiếm thực hiện chương trình và ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Điều bi thảm nhất là nếu chúng ta kiếm tìm một Đức Giêsu không có Thập Giá, rất có thể chúng ta sẽ gặp thập giá mà lại vàng bóng Đức Giêsu ! Văn kiện về một số khía cạnh cấp bách của việc đào tạo tu đức trong Chủng viện viết : “Nếu Đức Kitô mà chúng ta giới thiệu không phải là “Đức Kitô Khổ Nạn” thì đấy là chúng ta đang giới thiệu một ai khác chứ không phải là Đức Kitô thực” (II,2).
Thập Giá có nghĩa là từ bỏ những tham vọng trần gian, những kế hoạch riêng tư, những mộng ước, những đứa con tinh thần mình hằng ấp ủ và từ bỏ ngay chính bản thân. Thập giá là can đảm uống cạn chén đắng và để Thần khí dẫn đến nơi nào Ngài muốn. Thập giá là thực hiện trọn vẹn mọi chiều kích của giới răn yêu thương. Ngay cả những lúc mà Thập Giá có về như một bóng tối phủ trùm trên chúng ta, thì đó chính là bóng bàn tay nhân lành của Thiên Chúa đang ân cần dẫn lối đưa đường cho chúng ta.
Cám dỗ thường xuyên của giới trẻ hôm nay là kiếm tìm một Đức Giêsu không có Thập Giá, một “Đức Kitô siêu sao”, một thứ Tin Mừng không nhuốm nước mắt và một thứ Kitô giáo dễ dãi. Và rất có thể chúng ta – cũng như thánh Phêrô ngày xưa – chúng ta sẽ bị Đức Giêsu khiển trách : "Sa tan, hãy xéo đi !", bởi vì các ngươi không cố gắng thực hiện chương trình của Thiên Chúa, mà chỉ muốn thực hiện kế hoạch của riêng mình hay theo khuynh hướng trần gian.
Tin Mừng của Đức Giêsu vừa là Tin Mừng khổ lụy, vừa là Tin Mừng an vui, và Tin Mừng đó không những phải được rao giảng mà còn phải được thực thi. Có thể quả quyết “Tin Mừng – Thập Giá” này là một trong những nghịch lý lạ lùng của Kitô giáo. Sự khôn ngoan và sức mạnh của Thập Giá chỉ được hiểu một khi người ta đảm nhận nó và trực tiếp kinh nghiệm nó. Dĩ nhiên, Thập Giá không phải là điểm tới của Kitô giáo, nhưng nó là cánh cổng dẫn vào sự sống : thất bại chuyển hóa thành chiến thắng, một sự sống bị tước đoạt lại trở thành sự sống tròn đầy, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết đi sẽ sống muôn đời...
Đức Kitô không bao giờ che giấu Thập Giá. Ngài biểu dương và suy tôn Thập Giá : “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình ; nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ trổ sinh nhiều bông hạt”. Chính Ngài đã đi đến cùng con đường tự hủy này. Ngài tự hạ và từ bỏ chính mình đến độ trở thành trống không, nhưng đó là lúc Ngài đạt đến đỉnh cao của công cuộc cứu độ. Đời sống của người tu sĩ chỉ thực sự sắc nét và độc sáng khi biết tựa vào Thập Giá của Đức Kitô.
3- Khổ chế tự nguyện
Trong thời đại hôm nay, khó có thể chấp nhận những khổ chế áp đặt hoặc các loại khổ chế làm tổn thương đến phẩm giá con người. Nhưng hơn bao giờ hết, để có thể đứng vàững giữa thời đại tự do này, người tu sĩ cần có nội lực và bản lãnh. Khổ chế tự nguyện là một trong những hình thức luyện ý chí và tăng cường nội lực tâm linh. Tài liệu quan trọng mang tựa đề “Những chỉ đạo về huấn luyện trong các Dòng tu” của Thánh bộ các Dòng tu và các Tu Hội nhấn mạnh đến vai trò của khổ chế trong công tác đào tạo nói riêng và trong đời tu nói chung :
“Việc bước theo Đức Kitô giúp người tu sĩ tham dự ngày càng ý thức và cụ thể hơn vào mầu nhiệm thương khó, chết và sống lại của Ngài. Mầu nhiệm phục sinh phải là trung tâm của các chương trình đào tạo, vì đó là nguồn mạch đem lại sức sống và trưởng thành. Chính trên nền tảng đó sẽ hình thành con người mới, con người tu hành và con người tông đồ. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng khổ chế là yếu tố không thể thiếu trong việc huấn luyện và trong đời tu” [177].
Trước một thế giới chạy theo khoái lạc, hưởng thụ, tiền tài và lạm dụng quyền bính dưới nhiều hình thức, cần phải có những chứng nhân về mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, mà giai đoạn đầu phải là chặng đường thập giá.
Theo Bộ Tu sĩ, “chương trình đào tạo toàn diện phải có khổ chế hằng ngày của cá nhân. Khổ chế này giúp các ứng sinh, tập sinh, khấn sinh thực hành các nhân đức tin, cậy, mến, khôn ngoan, công bằng, can đảm, tiết độ (...). Không chấp nhận khổ chế sẽ không thể sống trọn vẹn bí tích thánh tẩy và càng không thể trung thành với ơn gọi tu trì. Khổ chế này sẽ dễ dàng được đón nhận hơn nếu, cũng như toàn bộ đời sống Kitô hữu, nó được thúc đẩy bởi tình yêu Chúa Kitô và niềm vui phục vụ Ngài”.
Dân Thiên Chúa trong thời đại chúng ta luôn cần những chứng nhân đã khước từ không những “tất cả những gì mà thánh Gioan gọi là “thế gian” và “các dục vọng của nó”, mà ngay cả cái “thế giới” đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa sáng tạo và gìn giữ, cùng với một số giá trị của nó. Tu sĩ đóng vai trò chứng nhân đặc biệt để nói lên rằng Nước Thiên Chúa vượt trên tất cả các giá trị trần thế [178].
Khổ chế được nhìn nhận như một thành phần thiết yếu gắn chặt với cuộc sống tu hành. Không thể quan niệm đời sống tu trì mà lại vàng bóng thói quen tự chế, tự chủ, nếp sống kỷ luật, đôn giản, khổ hạnh và những khoảnh khắc để sống cô tịch với Chúa, cũng như sống thực với chính mình. “Lời Đức Giêsu nói về hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để đâm bông kết trái có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với người tu sĩ, do tính công khai của lời tuyên khấn. Quả vậy, hôm nay, hoàn cảnh sống có nhiều thách đố và phải đón nhận những thách đố đó như những khổ chế. Tuy nhiên, nếu các tu sĩ không dành một chỗ trong đời sống của mình cho “cuộc đời khổ hạnh trong vui tươi và quân bình” và sự tự nguyện chấp nhận một số giới hạn nào đó, sẽ có nguy cơ đánh mất sự tự do tâm linh cần thiết khi sống các lời khuyên Phúc Âm. Thật vậy, thiếu vàng khổ chế và từ bỏ, chính đời sống tận hiến có thể bị phương hại, bởi vì chúng ta không thể làm chứng công khai cho Đức Kitô thanh bần, khiết tịnh và tuân phục mà không có khổ chế” [179].
Khi phân tích các cuộc khủng hoảng ở thời hậu Công đồng, văn kiện “Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn” cho rằng một trong những điểm yếu của những thập niên gần đây là không nhấn mạnh đủ đến vai trò của khổ chế trong đời sống tu hành. “Sự hiểu biết về đời sống cộng đoàn đã gia tăng, và người ta đã nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của nó. Tuy nhiên, người ta ít quan tâm đến nỗ lực khổ chế, một điều cần thiết và không thể thay thế đối với bất cứ sự giải phóng nào nhằm biến đổi một nhóm người thành một cộng đoàn huynh đệ Kitô giáo (...). Cộng đoàn mà không có tính huyền nhiệm thì thiếu hồn ; nhưng cộng đoàn mà không có khổ chế thì không có xác. Cần thiết “phối hợp” giữa hồng ân Thiên Chúa với dấn thân cá nhân để xây dựng sự hiệp thông nhập thể” [180]
Trên bình diện nhân bản, khổ chế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện nhân cách. Chính nó sẽ giúp chúng ta chế ngự những đòi hỏi của bản năng tự phát và loại trừ dần những khuynh hướng xấu tiềm ẩn trong ta [181]. Ngoài ra, tâm lý học cũng lưu ý chúng ta rằng để rèn luyện nhân cách và nội lực cho thanh niên rất cần những lực cản, chẳng hạn nhà giáo dục, kỷ luật, khổ chế...
Tất cả những thành công và các tác phẩm có giá trị cao trong cuộc sống đều phải trả giá. Ngay cả nơi các thiên tài, thì yếu tố thiên phú cũng vẫn nhỏ hơn so với nỗ lực bản thân. Không ai có thể thành công nếu không chiến thắng sự lười biếng và cuộc sống dễ dãi để can đảm lướt thắng khó khăn và vượt trên những nghịch cảnh. Honoré De Balzac nhận định thâm thúy : “Hoàn cảnh khó khăn là nấc thang cho bậc anh tài, là kho báu cho người khôn khéo, nhưng là vực thẳm cho kẻ yếu đuối”.
Trong mấy năm gần đây người ta nói nhiều đến tương quan giữa thương số vượt khó và thương số thành công trong cuộc đời [182]. Thương số vượt khó (Adversity Quotient) đo lường khả năng thường xuyên của một người khi đối diện với những khó khăn và bất trắc trong cuộc sống. Người có thương số vượt khó cao sẽ biết vận dụng tất cả tiềm năng và nội lực để đương đầu với nghịch cảnh. Nếu không thể vượt qua tất cả những khó khăn đó, ít nhất họ sẽ giảm thiểu tối đa những tổn thương do các khó khăn trên gây ra. Trái lại, người có thương số vượt khó quá thấp dễ bị nhụt chí, bi quan, chán nản khi đối diện với khó khăn và dễ bị thối chí, bỏ cuộc.
Nếu thương số trí tuệ thuộc dạng bẩm sinh, thương số vượt khó lệ thuộc nhiều ở ý chí phấn đấu. Nó có thể tăng một cách đột ngột và tăng nhanh trong một thời gian ngắn.
Giáo xứ Tam Tòa cùng Giám Mục Cao Đình Thuyên tập hợp 250,000 người cầu nguyện cho quê hương, phản đối chế độ Việt Cộng khủng bố giáo dân.
Cuộc sống hôm nay đầy dẫy những bất trắc, thách đố, yêu sách… đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hay trả lời trong một giới hạn nhất định nào đó. Thương số vượt khó diễn tả cách thức chúng ta đối diện và giải quyết vấn đề : từ những khó khăn vụn vàt trong đời thường cho đến những khó khăn lớn lao, từ những chuyện rắc rối về nghề nghiệp cho đến những nỗi bất hạnh của kiếp người.
Để có thể sống trọn vẹn ơn gọi tu trì và chu toàn sứ vụ tông đồ trong xã hội hôm nay, ít nhất người tu sĩ phải có thương số vượt khó hạng trung bình trở lên. Theo một số người, không nên nhận vào đời tu những ứng sinh có thương số vượt khó dưới trung bình.
Cuối cùng, chúng ta phải chấp nhận và can đảm sống giữa hòan cảnh bất trắc, vì những thay đổi đến độ chóng mặt của thời đại và tình trạng tranh tối tranh sáng của xã hội Việt Nam. Thật vậy, cho đến nay tương lai chưa định hình rõ nét. Cũng chẳng ai biết chắc nó sẽ ra sao và như thế nào. Điều chúng ta biết chắc là toàn cầu hóa là một tiến trình bất khả phục hồi. Ngoài ra, cuộc canh tân thời hậu Công đồng Vàtican II cũng giúp chúng ta ý thức rằng thay đổi là định luật tất nhiên, không thể né tránh. Chẳng ai biết thế giới này sẽ thay đổi những gì, thay đổi thế nào và thay đổi ra sao ? Nhưng chúng ta biết chắc là thay đổi sẽ tiếp diễn, cùng với tiến trình toàn cầu hóa và những biến đổi sâu rộng trong cuộc sống.
Cũng như dân Do thái thuở xưa, hành động bám ghì lấy quá khứ để chối từ tiến lên phía trước không những sẽ không dẫn đưa chúng ta trở về với một quá khứ không còn nữa, mà chắc chắn sẽ cản bước tiến của chúng ta đi vào tương lai. Nếu chúng ta khăng khăng chống lại tiến trình đổi mới, rất có thể Hội Dòng của chúng ta sẽ lưu lạc trong sa mạc đằng đẵng bốn mươi năm trường… hoặc cho tới khi chúng ta từ trần [183].
[172] Vatican 2,Lumen Gentium,số 46. [173] Perfectae Caritatis, số 1. [174] J.I. GonzáLez Faus, L humanidad nueva, Santander, 1986, 46. [175] Xem R.A. HorsLey & J.S. Hanson, Bandits, Prophets and Messiahs, MinneapoLis, 1985 ; H. Guevara, Ambiente poLitico deL pueblo judío en tiempo de Jesús, Madrid, 1985. [176] Xc. Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, 2001, tr. 40-49. [177] “Những chỉ đạo về huấn Luyện trong các Dòng tu” (ban hành ngày 2.2.1990), số 36. [178] Ibidem. [179] Những yếu tố cốt yếu trong giáo huấn của Hội Thánh về đời tu, số 31. [180] Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 23. [181] Ibidem, số 36-37. [182] Xem PauL G. StoLtz, Adversity Quotient : Turning ObstacLes into Opportunities, 1997. [183] Xem Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, Houston, 2001, 219-225. -- Giám Mục Nguyễn Thái Hợp
Đức Giám mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp ký tên vào kiến nghị yêu cầu trả tự do cho Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ
Việc một Đức giám mục trong Hội Đồng giám mục Việt Nam, nhất là trong tư cách là Chủ tịch ủy ban Công lý và Hòa Bình, lên tiếng về những bất công xã hội, những cuộc bắt bớ trái pháp luật, cụ thể là trường hợp tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, thì phải được coi như đây là một lời ngỏ cho các tín hữu hãy dấn thân mạnh mẽ hơn nữa cho công lý và sự thật, chung tay xây dựng một xã hội công bằng và bác ái hơn.
Ngay sau khi phiên tòa ma quỷ xử tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ một phong trào ký tên kiến nghị trả tự do cho tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ đã được khởi động và thu hút mọi thành phần từ các cựu tướng lãnh, sĩ quan cao cấp, các nhà tri thức hải ngoại cũng như quốc nội, cho tới các thương gia, nông gia.
“Bức xúc vì trong thời gian vừa qua có nhiều vụ án không được xử theo những trình tự pháp luật. Trong vụ án xử Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ bộc lộ rõ chuyện đó. Chuyện bắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ có nhiều điều giả tạo quá”. – GM Phaolo Nguyễn Thái Hợp
Trong danh sách ký tên kiến nghị trả tự do cho tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ (danh sách đợt 2), đáng chú ý có tên Đức Giám mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp – giám mục giáo phận Vinh, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn đài RFI, đức cha Nguyễn Thái hợp cho biết lý do tham gia ký tên: “Bức xúc vì trong thời gian vừa qua có nhiều vụ án không được xử theo những trình tự pháp luật. Trong vụ án xử Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ bộc lộ rõ chuyện đó. Chuyện bắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ có nhiều điều giả tạo quá”.
Trong những ngày qua, đây là lần thứ hai, người ta thấy Đức cha Phaolo đã có những bước đi mạnh mẽ trong việc lên tiếng về những vấn đề bất công trong xã hội. Trước tiên là việc ngài can thiệp và yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản phải thả luật sự Lê Quốc Quân, bác sĩ Phạm Hồng Sơn và lần này là ký kiến nghị yêu cầu chính quyền trả tự do cho tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ.
Cũng nên nhớ rằng ngài đã có văn thư gửi đến Chủ tịch UBND Đà Nẵng và Tòa án quận Cẩm Lệ vì một vụ án bất chấp pháp luật như vụ Cù Huy Hà Vũ đối với người dân Cồn Dầu.
Phiên tòa Vũ Huy Hà Vũ, nỗi nhục quốc thể trước toàn dân và dư luận quốc tế
Trước đó, ngài cũng đã ký tên vào bản kiến nghị dừng dự án Bauxite ở Tây Nguyên, một dự án không hợp lòng dân, có nguy cơ cao đối với vùng văn hóa Tây Nguyên lâu đời cũng như đe dọa an ninh của nửa miền Nam đất nước. Đặc biệt dự án này được ví như hành động “rước voi giày mả tổ” khi đưa đội quân bành trướng bá quyền phương Bắc vào tận sào huyệt cốt tử của đất nước.
Việc một Đức giám mục trong Hội Đồng giám mục Việt Nam, nhất là trong tư cách là Chủ tịch ủy ban Công lý và Hòa Bình, lên tiếng về những bất công xã hội, những cuộc bắt bớ trái pháp luật, cụ thể là trường hợp tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, thì phải được coi như đây là một lời ngỏ cho các tín hữu hãy dấn thân mạnh mẽ hơn nữa cho công lý và sự thật, chung tay xây dựng một xã hội công bằng và bác ái hơn.
Hy vọng rằng việc Đức cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp mạnh mẽ lên tiếng cho những bất công xã hội, những việc làm phi pháp của chính quyền Hà Nội thời gian qua, sẽ là tiền đề tạo nên một làn sóng hiệp thông cụ thể và mạnh mẽ hơn nữa trong Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Cũng hy vọng rằng, sau khi TGM Giuse Ngô Quang Kiệt – người đã không ngần ngại chia sẻ với những thân phận đau khổ và lên tiếng chống lại bất công, xã hội – buộc phải rời nhiệm sở của mình, các Giám mục Việt Nam đã có một thời kỳ dài im lặng, nhiều khi tưởng như vô cảm trước những vấn đề xã hội, đất nước trước sự đau khổ của các thân phận nghèo hèn, bị áp bức… thì nay đã đến lúc các Giám mục Việt Nam sẽ mạnh mẽ hơn và có đường lối, hành động rõ ràng làm gương mẫu cho giáo dân vững bước tiến lân xây dựng đất nước theo con đường Sự thật – Công lý – Hòa bình mà Đức cha Nguyễn Thái Hợp đã có những bước đi mạnh mẽ, hợp lòng người cũng như sứ vụ của Giáo hội công giáo.
18/4/2011 Nữ Vương Công Lý
Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp: “Các giám mục phải mạnh dạn đề cập đến nhân quyền ở Việt Nam”
Đã đến lúc, chúng tôi nghĩ rằng Hội đồng Giám Mục cũng như các giám mục cũng phải lên tiếng rõ hơn về vấn đề đó, mặc dù là vấn đề nhạy cảm. Nhưng đó cũng là đóng góp cho con người và cho dân tộc.
Cái quyền đó không chỉ là quyền của người dân, mà là quyền của cả dân tộc, chẳng hạn như vấn đề Biển Đông. Đó cũng là vấn đề nhạy cảm mà đã đến lúc, với tư cách là thành phần của dân tộc, chúng ta cũng nên nghĩ đến chuyện đó. (Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp O.P)
Ngày thứ sáu tuần này, 22/10, ba năm sau khi được loan báo, án phong chân phước cho Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sẽ chính thức được khởi sự, đầu tiên là ở cấp Giáo phận Roma.
Sinh ra tại cố đô Huế ngày 17-4-1928, Ðức Hồng y Nguyễn Văn Thuận chịu chức linh mục năm 1953 và năm 1967 được Ðức Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm làm giám mục Nha Trang. Bảy ngày trước 30/4/1975, Ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn.
Nhưng chính quyền không công nhận việc Ngài được bổ nhiệm và đã bỏ tù Ngài trong 13 năm, trong đó có chín năm biệt giam. Ðược trả tự do năm 1988, Ngài được phép ra nước ngoài năm 1991, nhưng trong khi ở hải ngoại, Đức Hồng y Thuận bị cấm trở về Việt Nam.
Năm 1994, cảm mến tài năng và đức độ của Đức cha Thuận, Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolồ II triệu Ngài sang Rôma, giao cho giữ chức vụ cấp cao tại Vatican và đến ngày 21/2/2001, phong chức Hồng y cho Ngài. Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận cũng đã được Giáo hoàng cất nhắc lên giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình từ năm 1994, rồi làm Chủ tịch từ ngày 24/6/1998 đến 16/9/2002, khi Ngài qua đời.
Nghe bản nhạc Khánh Ly hát Phổ nhạc: Linh mục Lê Bá Công
ConCoMotToQuoc DHYNVThuan LMDBCong KLy Xem Slideshow "Con Có Một Tổ Quốc" http://video.freevietnews.com/video02.php5## Án phong chân phước cho Đức Cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận diễn ra vài ngày sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam lần đầu tiên từ năm 1975 đã thành lập Uỷ ban Công lý và Hòa bình, một uỷ ban sẽ hoạt động theo khuôn mẫu của Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình.
RFI phỏng vấn Giám Mục Nguyễn Thái Hợp
Người được giao giữ chức Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban này là Đức Giám mục Giáo phận Vinh Phaolô Nguyễn Thái Hợp. Vào thứ sáu tuần trước ( 15/10 ) , Đức cha Nguyễn Thái Hợp đã trả lời phỏng vấn RFI trong cương vị mới này:
Đức cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp RFI: RFI hôm nay rất vui mừng được tiếp chuyện Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh và cũng là Chủ tịch Uỷ ban Công lý và Hòa bình mà Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa thành lập. Trước hết xin Đức cha cho biết là Uỷ ban này sẽ hoạt động như thế nào?
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Uỷ ban Công lý hòa bình là một ủy ban trực thuộc Tòa thánh, trực thuộc Đức Giáo hoàng. Nhiệm vụ của ủy ban là tranh đấu cho quyền lợi của con người, để ý đến chiều kích xã hội của vấn đề loan báo Tin Mừng, trong đó có vấn đề việc làm, lao động, quyền con người, hòa bình, chiến tranh, những vấn đề có liên hệ đến sứ vụ loan báo Tin Mừng của người Công giáo trong thời đại hôm nay.
Chính vì vậy, trong mấy thập niên sau cùng này, Uỷ ban đã cho xuất bản cuốn về giáo huấn xã hội Công giáo, coi như một cẩm nang tóm lược nội dung hoạt động của Uỷ ban Công lý và Hoà bình. Lãnh vực hoạt động của ủy ban rất rộng lớn, bao gồm các chiều kích : lao động, hòa bình, chiến tranh, nhân quyền, v.v. . . Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolồ đệ nhị coi đây là hình thức cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay.
RFI: Áp dụng cụ thể cho bối cảnh Việt Nam thì cụ thể hoạt động trong tương lai của Uỷ ban Công lý và Hòa bình sẽ ra sao ?
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Thực sự thì tất cả các ủy ban của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng chỉ hoạt động trong khả năng và điều kiện của mình thôi. Hội đồng Giám mục Việt Nam khởi đi với 4 ủy ban, rồi sau đó dần dần hầu như là mỗi thời điểm lại thêm một uỷ ban, chẳng hạn như lần họp cách đây mấy năm, đã lập nên Uỷ ban Giáo dục Kitô giáo và lần cuối cùng này lập Uỷ ban Công lý và Hòa bình. Còn một số ủy ban nữa mà chưa thấy có nhu cầu thành lập như Đối thoại liên tôn hay Đại kết giữa các Kitô hữu với nhau.
Uỷ ban Công lý và Hòa bình ra đời trong bối cảnh hôm nay vì Hội đồng Giám mục nghĩ rằng có đủ nhân sự hơn và điều kiện có thể cho phép nghĩ đến chiều kích xã hội, vấn đề loan báo Tin Mừng. Nhưng ủy ban đó hoạt động như thế nào thì cũng phải chờ vấn đề nhân sự, rồi vấn đề hoàn cảnh, thời thế. Hiện giờ chúng tôi chưa bố trí được nhân sự, ngân khoản, văn phòng. Tất cả chuyện đó là chuyện dài hơi.
Giáo hội có sứ vụ loan báo Tin Mừng, thì Giáo hội cần phải lên tiếng về những gì đụng chạm đến con người. Chính vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong tương lai, phải đề cập đến những vấn đề như lương bổng, quyền lợi người lao động, chênh lệch giàu nghèo, và ngay cả quyền lợi giai cấp công nhân, nông dân.
RFI: Thưa Đức cha, theo chiều hướng hoạt động vì quyền lợi con người, vì nhân quyền, vì hòa bình, Ủy ban có thể làm được gì để giảm bớt cách biệt xã hội ngày càng lớn ở Việt Nam ?
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Thực sự thì Giáo hội không bao giờ chủ trương làm thay cho Nhà nước và cũng không phải là sứ vụ của Giáo hội. Nhưng Giáo hội có sứ vụ loan báo Tin Mừng, thì Giáo hội cần phải lên tiếng về những gì đụng chạm đến con người. Chính vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong tương lai, phải đề cập đến những vấn đề như lương bổng, quyền lợi người lao động, chênh lệch giàu nghèo, và ngay cả quyền lợi giai cấp công nhân, nông dân. Việt Nam tự hào là đất nước của giai cấp công nông, nhưng thực tế hiện nay là giai cấp công nhân bị thiệt thòi rất nhiều.
Tất cả những điều đó đều nằm trong suy tư của Giáo hội Công giáo. của Uỷ ban Công lý và Hoà bình, cũng như của tất cả người Công giáo. Rồi vấn đề đất đai, quyền sở hữu cũng là một vấn đề. Trên nguyên tắc đất đai là thuộc sở hữu Nhà nước, nhưng trong rất nhiều trường hợp, chúng ta thấy một số bãi biển đẹp nhất bay giờ bổng dưng được tư hữu hóa một cách chưa được chính đáng bao nhiêu. Thành ra người dân luôn luôn bị thiệt thòi. Có rất nhiều điểm cần phải suy nghĩ và đào sâu hơn.
RFI: Trong chiều hướng đó thì Đức cha nhìn thế nào về sự cộng tác của Uỷ ban với chính quyền, với các tổ chức xã hội dân sự?
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Điều đó thật ra còn tùy điều kiện của hai bên nữa. Nhưng nói chung theo định hướng của Đức Giáo hoàng Benedicto 16: « Đối thoại thẳng thắng và cộng tác chân thành », Giáo hội không chủ trương thay Nhà nước, nhưng Giáo hội và Nhà nước đều gặp nhau ở chổ là phục vụ con người. Trên cái chổ phục vụ con người đó thì có nhiều khi Giáo hội phải cộng tác với Nhà nước, có nhiều khi phải tán đồng với những điều mà Nhà nước làm mà ích quốc lợi dân, nhưng cũng vì vậy mà phải lên tiếng nếu thấy rằng những điều mà Nhà nước làm có lẽ chưa ích quốc lợi dân bao nhiêu. Đó là điều mà chúng tôi suy nghĩ. Nhưng làm được đến đâu thì còn lệ thuộc rất nhiều yếu tố.
RFI: Trước đây, Đức cha cũng đã hoạt động rất nhiều trong lĩnh vực xã hội, từ thiện. Những hoạt động từ thiện nó có sẽ nằm trong khuôn khổ hành động của Ủy ban Công lý và Hòa bình?
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Hoạt động từ thiện thì nằm ở Uỷ ban Caritas Bác ái Xã hội. ( Tôi vừa mới đi Quảng Bình với Uỷ ban Bác ái Xã hội để giúp nạn nhân bão lụt ). Uỷ ban Công lý và Hòa bình cũng có liên hệ với Uỷ ban Caritas và Uỷ ban Giáo dục Kitô giáo, nhưng mỗi cái có một sắc thái riêng. Nhưng điều mà Uỷ ban Công lý và Hòa bình muốn nhắm tới đó là vấn đề quyền lợi con người, tức là có chiều kích rộng hơn, chứ còn đi vào trực tiếp trong vấn đề cứu trợ thì đã có Uỷ ban Bác ái Xã hội.
RFI: Thưa Đức cha, trong thời gian qua, đất đai đã trở thành vấn đề nóng bỏng và đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp, đôi khi dẫn đến bạo lực, giữa chính quyền địa phương với giáo dân. Trong tinh thần đối thoại, theo Đức cha, vấn đề đất đai nên được giải quyết như thế nào để tránh tái diễn xung đột giữa Nhà nước với Giáo hội trong tương lai?
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Vấn đề đất đai đã gây ra nhiều sự cố ở Việt Nam và cũng là nguồn gốc của nhiều vụ tham nhũng. Xung đột đất đai đâu phải chỉ liên quan đến người Công giáo. Người Công giáo chỉ là một nhóm nhỏ thôi. Tất cả những vụ khiếu kiện, đấu tranh đều liên hệ đến đất đai.
Tôi nghĩ rằng trong tương lai, phải nghĩ đến chuyện hiện đại hóa luật đất đai để nó hợp lý hơn, ít duy ý chí hơn và có thể phục vụ được người dân, đáp ứng nhu cầu của người dân, cũng như các doanh nghiệp trong giai đoạn mới và nói chung là công bằng hơn, chứ không thể kéo dài luật đất đai hiện hành.
RFI: Thưa Đức cha, nhân quyền là một trong những lĩnh vực hoạt động của Uỷ ban Công lý và Hòa bình. Ở Việt Nam, cho tới nay, nhân quyền vẫn là vấn đề tế nhị. Theo Đức cha, việc đấu tranh cho nhân quyền nói chung và quyền tự do tôn giáo nói riêng phải được thực hiện như thế nào?
Đã đến lúc, chúng tôi nghĩ rằng Hội đồng giám mục cũng như các giám mục cũng phải lên tiếng rõ hơn về vấn đề đó, mặc dù là vấn đề nhạy cảm. Nhưng đó cũng là đóng góp cho con người và cho dân tộc. Cái quyền đó không chỉ là quyền của người dân, mà là quyền của cả dân tộc, chẳng hạn như vấn đề Biển Đông. Đó cũng là vấn đề nhạy cảm mà đã đến lúc, với tư cách là thành phần của dân tộc, chúng ta cũng nên nghĩ đến chuyện đó.
Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp: Vấn đề nhân quyền luôn là vấn đề nhạy cảm. Nếu anh đọc lịch sử thì sẽ thấy nó luôn là vấn đề nhạy cảm. Chúng ta có những luật về nhân quyền, có bản tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiện quốc là phải trải qua bao nhiêu tranh đấu, ngay cả ở những nước lớn như Hoa Kỳ, quyền của các sắc tộc, của những người da màu, thì phải trải qua bao nhiêu tranh đấu mới được. Tôi nghĩ rằng ở Á Đông cũng vậy. Cách đây mấy chục năm, một số người nghĩ rằng cái nhân quyền đó là quan điểm của Tây phương, chứ không phải của Á Đông.
Nhưng hôm nay có lẽ ít người dám nghĩ như vậy, vì dù sao có những quyền căn bản của con người, có những quy định của quốc tế. Nhưng áp dụng và đi như thế nào thì tùy thuộc vào thực tại xã hội, thực tại lịch sử. Quan điểm chung của Đức Giáo hoàng Benedicto 16 “ Đối thoại thẳng thắng và cộng tác chân thành để làm sao quyền con người được thực hiện.
Và đã đến lúc, chúng tôi nghĩ rằng Hội đồng giám mục cũng như các giám mục cũng phải lên tiếng rõ hơn về vấn đề đó, mặc dù là vấn đề nhạy cảm. Nhưng đó cũng là đóng góp cho con người và cho dân tộc. Cái quyền đó không chỉ là quyền của người dân, mà là quyền của cả dân tộc, chẳng hạn như vấn đề Biển Đông. Đó cũng là vấn đề nhạy cảm mà đã đến lúc, với tư cách là thành phần của dân tộc, chúng ta cũng nên nghĩ đến chuyện đó.
RFI: Xin cám ơn Đức cha Nguyễn Thái Hợp Thanh Phương Nguồn: RFI(các bài đọc thêm)
:: Chúng con phải làm gì? - NVCL :: Ngày 3/9/2011, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện Không thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam, đã tới thăm Tổng Giáo phận Huế khởi đầu cho chuyến viếng thăm các giáo phận thuộc Tổng giáo phận Huế từ ngày 3-16/9/2011. Đây là lần thứ ba vị Đại diện không Thường trú của Tòa thánh đến Việt Nam sau chuyến viếng thăm Giáo hội Việt Nam vào dịp Hội nghị thường niên Hội đồng Giám mục Việt Nam cuối tháng Tư 2011, và chuyến viếng thăm 5 giáo phận thuộc giáo tỉnh Hà Nội vào đầu tháng Sáu vừa qua.. ..:: xem tiếp :: Viết từ Canada - Mặc Giao :: TẠI SAO HOA KỲ KHÔNG ĐƯA VIỆT NAM TRỞ LẠI DANH SÁCH CÁC NƯỚC ĐÁNG QUAN TÂM VỀ TỰ DO TÔN GIÁO? Ngày 13-9-2011, Văn Phòng Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố phúc trình thường niên cho năm 2010 về tự do tôn giáo quốc tế (International Religious Freedom Report). Phúc trình này được gửi lên quốc hội Mỹ và công bố cho dư luận. Phần nói về tự do tôn giáo tại VN dài 20 trang. Trước khi phúc trình được phổ biến, nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và chính khách Mỹ đã khuyến cáo và kêu gọi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa VN trở lại danh sách những quốc gia đáng quan tâm về tự do tôn giáo (countries of Particular Concern, gọi tắt là CPC). Việt Nam đã có tên trong danh sách này từ năm 2004, nhưng được rút ra năm 2009, ngay trước khi Tổng Thống George W. Bush đến Hà Nội dự hội nghị thượng đỉnh APEC....:: xem tiếp :: Hội đàm vòng 3 Vatican-Việt Nam - Nam Trung :: (TNCG) Cuối cùng thì hội đàm vòng 3 giữa Nhóm Công tác Hỗn hợp Vatican và Chính phủ Việt Nam cũng dự kiến diễn ra vào ngày 27-28 tháng 9 tại Hà Nội, chậm 3 tháng so với cam kết hồi tháng 6 năm ngoái khi các bên có hội đàm vòng 2 tại Vatican. Nhiều lý do của sự chậm trễ được phía Việt Nam đưa ra nhưng chủ yếu là do sự lưỡng lự khi nhân sự và chính sách mới chưa thực sự định hình. Dù thờ ơ với việc thiết lập bang giao với Vatican, Việt Nam buộc phải chấp nhận ngồi vào cuộc hội đàm vòng 3 này trước sức ép đa phương hóa về ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong các vấn đề về chủ quyền quốc gia vốn quan hệ chặt chẽ với nhân quyền và tự do tôn giáo....:: xem tiếp :: Học thuyết xã hội của công giáo về chính trị - Lm Phan Tấn Thành :: Trước khi đi vào chi tiết, thiết tưởng nên đánh tan vài ngộ nhận chung quanh hai tiếng "chính trị". 1) Theo nghĩa hẹp, chính trị bao gồm những hoạt động nhằm thi hành quyền bính trong cộng đồng dân sự (từ cấp làng xã cho đến cấp tỉnh, quốc gia và quốc tế); hiểu theo nghĩa này, chính trị gắn liền với quyền hành: làm chính trị có nghĩa tìm cách nào để nắm giữ quyền hành để giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội....:: xem tiếp :: Tôi cám ơn Lm. Phan Khắc Từ - Lê Thiên :: Tuy biết Nữ Vương Công Lý rất thận trọng khi công bố bức thư với chữ ký hẳn hoi của Lm Phan Khắc Từ (PKT) gửi cho ĐHY Phạm Minh Mẫn ngày 16/6/2011, người viết bài này vẫn đợi chờ đến hôm nay, ngày 21/8/2011, mới dám lạm bàn tới bức thư ấy, vì ngại… thư giả. Nhưng sau một thời gian không thấy PKT phản ứng, bên cạnh đó một số tài liệu khác liên quan tới ông Từ được công bố, chúng tôi tin bức thư của lm Phan Khắc Từ là đáng tin cậy.....:: xem tiếp :: Những nẻo đường Việt Nam - Phạm Minh Tâm :: Ông bà mình xưa hay nói "con giun xéo lắm cũng quằn". Cũng vậy, thời nay người ta hay dùng chữ "bức xúc" để nói đến một cái tình trạng hay tâm trạng nào đó mà bị dồn nén, căng thẳng đến cực điểm là chỉ chờ bung ra. Đó là tình-trạng hiện nay của xã-hội Việt-Nam đang bị nạn ngoại xâm đe doạ trước mắt; đó là tâm-trạng của trên tám chục triệu người Việt-Nam đang sống trong nỗi sợ bị mất nước, bị vong-thân khi nhìn rõ mồn một chính-quyền cộng-sản Tầu càng ngày càng lấn lướt, càng lộng hành với Việt-Nam ...:: xem tiếp :: Sau những đợt cầu nguyện ở Thái Hà chúng ta đã vượt qua nỗi sợ - Gia Minh :: SANTA ANA. Hơn 600 đồng hương, không phân biệt tôn giáo đã đến Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại Santa Ana vào chiều Chủ Nhật 21.8.2011 để nghe Linh Mục Phêro Nguyễn Văn Khải, nguyên phát ngôn viên Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội nói chuyện về hiện tình tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt tại Thái Hà thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội. Đức Cha Mai Thanh Lương, GM phụ tá giáo phận Orange cùng nhiều nhân sĩ, trí thức trong cộng đồng cũng hiện diện trong dịp này.....:: xem tiếp :: Giáo hội kiểu Việt Nam - Nguyễn Văn Lục :: Một người bạn thân trong giới truyền thông đã gửi cho tôi bài báo của ký giả Ba Lan, Jacek Dziedzina, dài 16 trang, đăng trong tờ "Khách Chủ Nhật" sau chuyến sang VN kéo dài gần một tháng. Bài báo được đăng cách đây hơn một năm, nhưng như thể các điều nhà báo trình bày còn "nguyên vẹn như thể chuyện xảy ra mới đây". "Khách Chủ Nhật" là tờ tuần báo Thiên Chúa giáo Poland Gość Niedzielny; "Giáo hội kiểu Việt Nam" là một phụ san đặc biệt của tờ Gość Niedzielny. "Bến Việt", Câu lạc bộ văn hoá & xã hội Ba Lan, đã dịch phụ san chuyên đề Giáo hội Việt Nam tựa "Giáo hội kiểu Việt Nam" và đăng tại http://www.benviet.org/trong-tam:phu-san-dacbiet – DCVOnline.....:: xem tiếp :: Vài suy nghĩ rời về thư ngỏ của nhóm trí thức hải ngoại gửi nhà nước CSVN - Trần Phong Vũ :: I.- Nội dung Thư Ngỏ: Sau khi bày tỏ thái độ "ủng hộ bản ‘Tuyên cáo’ ngày 25 tháng 6, 2011 của 95 nhân sĩ, trí thức, tố cáo và lên án nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục gây hấn, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam" và "hưởng ứng bản "Kiến nghị" ngày 10 tháng 7, 2011 của 20 nhân sĩ, trí thức, kêu gọi Quốc hội và Bộ Chính trị công khai hoá thực trạng quan hệ Việt-Trung,…", các vị ký tên trong Thư Ngỏ tóm tắt một số những nhận định bổ túc, gồm những vấn đề sau đây: * Hiểm Họa ngoại bang. * Sức mạnh dân tộc. * Vị thế chính quyền. * Những việc cần làm. Trong "Những việc cần làm", Thư Ngỏ nêu lên 4 điểm: 1- Đối với Trung Quốc. 2- Đối với ASEAN và các nước khác. 3. Đối với nhân dân trong nước. 4. Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài....:: xem tiếp :: "Yêu cầu chấm dứt yêu nước" và gậy ông đập lưng ông trong con bài "Tự Phát" - Song Hà :: Xưa nay, chưa có thế lực cướp nước và bán nước nào đe dọa được, nhận chìm được tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sau 10 lần tuần hành vì lòng yêu nước, đa số những người tham gia là các trí thức, công nhân, nông dân… thanh niên và những công dân yêu nước tại địa bàn Hà Nội tịnh không có báo chí nhà nước nào thông báo cho bà con cô bác xa gần biết lòng yêu nước của họ. Lòng yêu nước của họ không được đánh giá cao bằng cô ca sĩ hở chỗ kín, ông bố hiếp con gái, người cha chém cả gia đình vì rượu hoặc tên cướp giết người phanh thây. Bỗng nhiên hôm nay báo chí lề phải đăng tin: "Hà Nội yêu cầu chấm dứt biểu tình tự phát"....:: xem tiếp
Chân dung cố Giám Mục PHAOLÔ LÊ ĐẮC TRỌNG Trần Phong Vũ Sau 92 năm tại thế, ngày 07-9-2009 Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, nguyên giám mục phụ tá tổng giáo phận Hà Nội đã được Thiên Chúa gọi về. Trong hơn 60 năm linh mục và 15 năm giám mục, ít ai biết rõ về thân thế, gia cảnh nhất là tác phong, nhân cách của ngài. Cho đến những năm cuối đời khi hai tập Hồi Ký 1 (2006) và 2 (2007) được phổ biến giới hạn trong nước, một số người mới bắt đầu lờ mờ nhận ra nơi Đức Cha Phaolô một nhân cách lớn. Nhưng vẫn chưa đủ rõ nét. Phải chờ tới sau Thánh Lễ an táng tại Nhà Thờ Chính Tòa Nam Định ngày 09-9-2009, khi Hồi Ký tập 3 được công bố*, người ta mới cảm nhận được trọn vẹn chân dung của người môn đệ Chúa Kitô đã âm thầm nhưng can đảm sống và thể nghiệm niềm tin son sắt của mình giữa những tháng năm đầy biến động trong lòng Giáo hội và Quê hương. Đấy là hình ảnh của đoá hoa sen tinh khiết lừng lững vươn lên giữa bùn lầy nhơ bẩn. Một mẫu người đơn sơ, khiêm tốn Qua những chứng từ để lại trong ba tập Hồi Ký, và qua những phát hiện sau này của nhiều nhân chứng, cho thấy Đức Cha Phaolô là một mẫu người đơn sơ, khiêm tốn, cưu mang một tinh thần nghèo khó bẩm sinh. Và khi tinh thần nghèo khó, đơn sơ, khiêm tốn bẩm sinh ấy được tôi luyện trong môi trường Kitô giáo thì chỉ có tăng thêm chứ không hề sút giảm. Trong đoạn thuật lại thời thơ ấu và bước đường Mục vụ ở phần 1 Hồi Ký toàn tập, Đức Cha đã giãi bày tâm trạng băn khoăn, bứt rứt pha lẫn ưu tư của mình khi chứng kiến lối sống cách biệt mà ngài cho là "dị thường" của giới giáo sĩ và cung cách "khúm núm, lễ độ" quá lố của giáo dân đối với những người chăn giắt linh hồn trong những năm cuối thế kỷ, ngay giữa lòng một chế độ gọi là "xã hội chủ nghĩa". Một điều dị thường khác theo quan sát của đức cha Phaolô ngay từ khi còn là một học sinh nhỏ trong xứ đạo quê nhà thì tuồng như người giáo dân Việt Nam có vẻ ưa thích lối sống quan liêu, hách dịch, xa cách của giáo sĩ hơn là thái độ bình dân, thân cận của các ngài! Đức cha viết: "Giáo dân kính mến các cha là thế. Sự quí mến đó có giúp gì cho các cha trong con đường nhân đức thiêng liêng hay chỉ giúp làm nảy tính kiêu kỳ, xa cách, ủy mị, biếng nhác việc bổn phận, tạo nên một lớp người lạ thường, kỳ dị? Cách đối xử với các ngài cũng lạ thường. Chào cha lại phải thêm những tiếng: 'con xin phép lạy cha'. Lúc ra về: 'Con xin phép về, để cha nghỉ', dường như cha chỉ có nghỉ ngơi, nằm võng chẳng phải làm việc gì. Một nếp sống tồn tại qua nhiều thế hệ. Tưởng rằng cuộc 'tổng quét' mà cộng sản thực hiện ở mọi tầng lớp xã hội có thể lật đổ được cách sống đó. Xem ra trái lại! Cũng như một số người hách dịch quan liêu nơi các cán bộ xã hội - thì các linh mục vào cuối thế kỷ ở Việt Nam, vẫn thừa tự nếp sống quan liêu, hách dịch chẳng kém xưa. … cha nào hiền lành, bình dân, xem ra nhiều người lại không thích. Thí dụ cha Hiếu, khi đến chơi nhà ông trẻ tôi đang làm trùm, thấy người ta giã gạo, người cũng đứng lên cối giã, bà con coi là tầm thường….. Cử chỉ bình dân đó ảnh hưởng lớn đối với tôi" Ngài tự hỏi: "ảnh hưởng bao nhiêu?" và tự trả lời: "Suốt đời". Hé mở đôi chút về mình, tác giả hồi ký cho hay: "Tính tôi nhút nhát, không thích ra mắt. Sợ gặp người giầu có quyền sang, thích giao thiệp với những người dân nghèo khó". (HK toàn tập Phần Một – Thời Thơ Ấu & Bước Đường Mục Vụ, trang 25-26). Trong bài giảng thuyết nhân Thánh Lễ an táng Đức Cha Phaolô ở Nhà Thờ Nam Định hôm 09-9-2009, Đức Cha Lôrenxô Chu Văn Minh, đương kim giám mục phụ tá Hà Nội, làm chứng: "Trong cuộc sống riêng tư, ngài luôn sống khó nghèo, không ham hố hưởng thụ giàu sang, ngài ăn uống đạm bạc, mặc áo vải thô, đi guốc mộc" Về điểm này, người ngoại cuộc chỉ cần nhìn tấm hình chụp chiếc giường ngủ đơn sơ, thanh đạm của vị giám mục quá cố là đủ rõ. Trong Hồi Ký toàn tập Phần II ngài viết về hàng Giám Mục với những lời lẽ cương trực như sau: "Giám Mục đoàn, yếu (...) Thiếu đoàn kết, chia rẽ theo miền, theo địa phương (…) Vị thì chỉ lo cho quyền lợi của Giáo phận mình, không quan tâm mấy đến quyền lợi chung; vị khác lo bảo vệ vinh quang (học vị), hầu hết nhút nhát sợ sệt, nhất là các vị miền Nam, vì luôn bị mặc cảm chiến bại. Đức Giám Mục Mỹ Tho đạo đức chân chính bị coi là lẩm cẩm. Không thiếu những vị kỳ thị Giáo phận nhỏ to, thầm mơ ước, và thậm chí nếu có thể, vận động cách nào đó để được chuyển vào những vị trí cao sang." (HK toàn tập Phần II – Giáo Hội CGVN Trước Cơn Bão Thời Đại, trang 256) Hơn ai hết Đức Cha Phaolô có quyền và có đủ tư cách để đưa ra những nhận định thẳng thắn trên đây. Giản dị vì cũng trong bài giảng nhân Thánh Lễ an táng ngài, đức giám mục phụ tá tổng giáo phận Hà Nội đã làm chứng trước sự hiện diện đông đủ các chức sắc trong Giáo hội và nhiều ngàn tín hữu như sau: "Là con người khiêm tốn, tuy 2 lần được Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê đề cử làm Giám mục, nhưng ngài đều từ chối. Lần thứ ba vì nhu cầu cấp thiết của Giáo Phận Hà Nội, ngài nhận làm giám mục phụ tá giúp việc đức Hồng Y Phaolô Phạm Đình Tụng, khi đã bảy mươi lăm tuổi." Vị chủ chăn can trường - Người Ngôn sứ miệt mài rao giảng Sau biến cố đất nước bị chia đôi năm 1954, cùng với một số linh mục, cha Phaolô Lê Đắc Trọng đã chọn ở lại miền Bắc, can đảm chấp nhận vai trò chủ chăn –hơn thế, vai trò Ngôn Sứ, giữa một xã hội vô thần, vô luân, vô tôn giáo, vô tổ quốc-. Vẫn theo đánh giá của Đức Cha phụ tá TGP Hà Nội Lôrenxô Chu Văn Minh, thì "Ngài là một ngôn sứ nhiệt thành luôn hăng say rao giảng Lời Chúa, thời thuận lợi cũng như không thuận lợi. Những bài giảng của ngài súc tích, mạch lạc lôi cuốn lòng người, là đèn sang, soi lối chỉ đường cho dân Chúa". Trong suốt những năm tháng khó khăn, nghiệt ngã, đảng và nhà nước cộng sản tuy không ra mặt bách đạo như những thế kỷ trước, nhưng bằng nhiều phương thế khác nhau, họ đã âm thầm tiến hành những thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm tiêu diệt lần hồi các tôn giáo, nói chung, cách riêng Giáo hội Công giáo. Thí dụ như họ chiêu dụ những thành phần tín hữu –bao gồm cả giáo dân và một thiểu số giáo sĩ- bất mãn, có cuộc sống bê tha, rối đạo để lập ra những tổ chức như "Ủy Ban Liên Lạc Những Người Công Giáo Yêu Nước, Yêu Hòa Bình, Tổ Quốc", ban đầu ở miền Bắc và "Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước" sau này ở miền Nam để dùng chính người Công giáo đánh phá Giáo hội theo kiểu "gậy ông đập lưng ông"; hủ hóa, mua chuộc các đấng bậc nhằm chia rẽ nội bộ Giáo hội; ngầm tước bỏ mọi phương tiện giáo dục, đào tạo, ấn loát khiến cho việc học đạo, tìm hiểu giáo lý bị trở ngại. Đấy là chưa kể những thủ đoạn vu oan, giá họa nhằm bắt bớ, kể cả giết chóc, thủ tiêu các linh mục, tu sĩ như trường hợp cha Nguyễn VănVinh thuộc Giáo phận Hà Nội bị giam cầm đến chết ở nhà tù khét tiếng Cổng Trời chẳng hạn. Trong Hồi Ký toàn tập, Đức Cha Phaolô đã nhiều lần công khai nói tới chủ trương thâm độc của đảng và nhà nước cộng sản nhằm loại khỏi tâm trí người dân, nhất là giới trẻ những ý niệm về "Ông Trời" về "Thiên Chúa". Trong HK toàn tập Phần Một – Thời Thơ Ấu & Bước Đường Mục Vụ (trang 157), đức cha nhận định: "người xưa khiêm tốn khẩn cầu: 'Lạy trời mưa xuống' thì nay 'thay trời làm mưa'. Tất cả đều có ý chối bỏ Thiên Chúa, hoặc có Thiên Chúa thì cũng chỉ là nhân vật rất tầm thường, chẳng có ích gì cho chúng ta; còn cản trở bước tiến của nhân loại là khác! Đúng với cái khẩu hiệu của ông tổ Các Mác của họ: 'Tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc nhân dân' (La religion est l''opium du peuple)." Để củng cố niềm tin nơi Thiên Chúa của các tín hữu hầu triệt tiêu luận cứ cho rằng không có Thiên Chúa của người cộng sản, trong thời gian ở Nam Định, linh mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã vận dụng tối đa những phương tiện eo hẹp có trong tầm tay để viết, chuyển ngữ, in và phát hành "chui" những tập tài liệu về giáo lý cơ bản. Đức cha viết: "Chính tôi quay máy ronêo của tôi, trong một buồng đóng kín, chỉ có mình tôi và cháu tôi là Oánh, hai bác cháu, chứ không có người khác, để việc in được giữ kín…" (Trang 150) Việc làm này nhà nước không thể không biết và vì thế: "…họ khó chịu về những vấn đề tôi đưa ra bản chất là ngược với điều họ tuyên truyền. Chẳng hạn lúc đó người ta nói, nhất là trong các trường học, con người không có linh hồn. Họ thuộc phái duy vật mà!". Vì thế: "Tôi viết sách: Con người phải có linh hồn" (Trang 157) Lòng trung thành với đức tin Công giáo của đức cha còn được biểu hiện qua những lần ngài được mời đi "làm việc". Trong Hồi Ký, ngài kể lại chi tiết cuộc đối thoại sau đây: "Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi: - Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)? - Tôi thưa: Có. - Khi làm phép thì ông đã nói thế nào? - Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói. - Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi. - Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi. Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu: - Tôi không được phép nói. Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng: - Ông có tôn trọng chính quyền không? - Có - luật đạo chúng tôi dạy điều ấy. Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng. Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng "chính quyền" không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi 'có tôn trọng luật pháp không', thì tôi thưa khác". - Ông thưa khác thế nào? - Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác. - Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên: - Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng: - Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không? Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng: - Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi. Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng: - Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không? Tôi cũng dằn từng tiếng: - Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo. - Thế nào là không hợp với lương tâm? Tôi ví dụ: - Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó. Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…" (HK toàn tập Phần Ba – Cái Nhìn Đối Với Việt Minh & Chủ Nghĩa CS, trang 365-366-367) . Đức cha Phaolô và "Ủy Ban" phá đạo Điều kỳ diệu là mặc dầu dưỡng phụ Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng là linh mục Vũ Xuân Kỷ, người sau năm 1954 từng giữ chức vụ Chủ tịch "UB/LL/YTQ&YHB" mà hậu thân của nó là "UB/ĐK/CGYNVN" ở miền Nam sau này, nhưng dường như không bao giờ, dù chỉ trong phút giây, tâm hồn và ý chí ngài bị lung lạc hay chao đảo. Đức cha luôn có một lập trường kiên định và dứt khoát. Nói về "Cha Bố", Đức Cha Phaolô viết: "Cha Kỷ suốt đời vẫn quý mến tôi, nhưng tránh tôi vì biết tôi không cùng lập trường với ngài". (HK toàn tập Phần Bốn: Phụ lục – Đôi hàng về thân thế ĐC Phaolô Lê Đắc Trọng – Vũ Sinh Hiên. Trang 502). Theo đức cha thì cả giáo phận Hà Nội thời ấy cũng có một lập trường dứt khoát như vậy: "Thông cáo về 'Ủy Ban liên lạc những người công giáo yêu tổ quốc yêu hoà bình' có chữ ký của cha Đinh Lưu Nhân, cha chính Địa phận. Bản thông cáo nói về việc dùng chữ "Công giáo". Chỉ được dùng danh nghĩa đó đối với những đoàn thể đã có phép giáo luật: ở đây cái Ủy Ban này không có phép, nên là sai luật. Với một số lý do khác nữa, người Công giáo không được gia nhập phong trào đó. Thông cáo đó được đưa đi các nơi chính trong các Địa phận" (Hk toàn tập Phần Một – Thời Thơ Ấu và Bước Đường Mục Vụ, trang 148) Ở một đoạn tiếp ngay sau đó, đức cha xác định quan điểm và dự tính riêng của ngài như sau: "Cái Ủy Ban đó, tôi cho rằng chỉ là bước đầu để đi đến việc lập Giáo hội tự trị, như ở bất cứ nước Cộng sản nào. Vì thế, bản thông cáo kia chưa đủ. Tôi muốn trình bầy về mối liên hệ giữa người Công giáo Việt Nam với Giáo hội hoàn vũ theo phương diện tích cực…" (Trang 149) Trong mục Phong trào các Patriotes, HK toàn tập Phần Hai, tác giả viết: "… Giáo Hội khổ nhiều vì nhóm đó trong nhiều năm, vì đó là công cụ để phá đạo, bách hại đạo, giống kiểu Julien Apostats: lấy đạo chống đạo, lấy người có đạo đập người có đạo, lấy con cái chống lại cha mẹ…. Người Công giáo chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này… Cũng may là những linh mục hay giáo dân lãnh đạo được lựa chọn ở những thành phần không đạo đức, nên ít ai theo; nhưng họ lại có quyền của nhà nước, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa biết bộ mặt của họ. Vì thế, nó đã sắp tàn nếu không có miền Nam đến tiếp sức và hồi phục nó dưới nhãn hiệu mới "Ủy ban Đoàn kết". Uỷ ban này có lãnh đạo trí thức (các linh mục bằng cấp), tìm được đất màu mỡ ở miền Nam và sống mạnh, nhờ vào việc thay đổi chiến thuật…." (HK toàn tập, Phần Hai – Giáo Hội CGVN Trước Cơn Bão Thời Đại, trang 260-261) Sau đó, đức cha xác tín rằng dù thay tên đổi họ thì bản chất của những tổ chức này vẫn chỉ là một thứ tay sai của chế độ. Vì thế ngài khẳng định: "Forme có đổi, fond vẫn không thay đổi. Tuyên bố không tách khỏi Giáo hội, lại còn giúp in những sách đạo, phổ biến Phúc Âm giáo lý, giúp cho các cha các xứ được quyền lợi nọ kia, đạo được dễ dàng, nhưng thực tế vẫn là tách khỏi Giáo hội, vì họ làm mọi việc đó nhân danh họ, ngoài quyền bính chính thức của Giáo hội" Trang 261). Bàn sâu vào những hệ quả nguy hại mà những thành phần đi theo tổ chức phản đạo kia phải gánh chịu, kể cả giới lãnh đạo trong Giáo hội thân cận với nó, chuẩn nhận nó, dủ chỉ để lợi dụng cách nào đó, đức cha viết tiếp: "Họ phải thừa hiểu rằng: được chín cái lợi mà hy sinh một điều thôi, có thể là mất tất cả… Ví dụ chỉ chấp nhận thế này: 'Ông là bạn tốt của tôi, ông giúp đỡ tôi rất nhiều. Chúng ta là bạn tốt với nhau!'. Đã là bạn tốt với nhau, đâu còn dám làm phật ý nhau, làm khác ý ông bạn của mình, phương chi làm ngược ý bạn, thế mà ông bạn kia lại là người tham lam, cho đi tất cả để lấy lại tất cả. Nhận thuộc về người bạn đó, là hiến cả đời sống cho người đó, cả Giáo hội, nếu có thể! Nhưng một khi đã trót rồi, không thể rút ra được nữa. Kinh nghiệm xưa là thế, nay vẫn thế. Nào mất quyền lợi, nào nguy cơ tưởng tượng, nào sĩ diện. Nay mọi cái mọi nơi đều thay đổi, chỉ con người có tinh thần ly khai, chống Giáo hội thì vẫn y nguyên. Một Đức Giám Mục nói về Tổng Đại Diện của mình đang thao túng mọi việc trong Giáo phận mà vị đó đã là và nay vẫn còn tinh thần patriot, Toà Thánh đã biết, dư luận chống đối, muốn vị đó từ chức. Đức Giám Mục nói: "Ông ấy tốt, giúp nhiều việc, làm sao bãi chức ông được. Khi nào tôi chết, tức khắc ông ấy hết quyền". Bi đát làm sao! Truyện thật 100%! Những ấn loát muốn được ra mắt, phải dán nhãn hiệu "Đoàn Kết". Các tác phẩm mất giá một phần, bị nghi ngờ. Nay dưới nhãn hiệu "Xuất bản của Toà Tổng Giám Mục". Đức cha cay đắng kết luận: "Lãnh tụ đã vào ngự toà rồi!" (trang 261-262) Với tâm tình mến đạo, yêu nước sâu xa, Đức cha có cái nhìn cảnh giác rất sớm về cộng sản. Là người có một kiến thức rộng rãi, uyên bác, thêm vào lòng yêu mến Giáo hội và Dân tộc cách sâu xa, ngay từ những ngày đầu gọi là Cách Mạng Tháng Tám khi cộng sản còn mang danh hiệu Việt Minh, linh mục Phaolô đã có một cái nhìn xuyên suốt về chủ nghĩa cộng sản và nhân vật Nguyễn Ái Quốc núp dưới tên Hồ Chí Minh để du nhập chủ nghĩa này vào Việt Nam. Trong Hồi Ký vủa Đức Cha, người ta đọc được những nhận định sắc bén sau đây: "Đảng cộng sản Đông Dương biết người Việt Nam đều sợ cộng sản, nên ngay từ năm 1945, họ đã giả cách tự giải tán, để lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác. Ông Hồ Chí Minh còn khôn khéo làm thân với Đức Cha Lê Hữu Từ, và mời ra làm cố vấn… Dẫu vậy, người ta biết ngày càng rõ: ông là Nguyễn ái Quốc, một người trùm cộng sản, phụ trách khu Đông Nam Á. Lúc này chưa có đảng lao động hay cộng sản gì hết, mà chỉ đơn thuần là Việt Minh". (HK toàn tập Phần Hai – Giáo Hội CGVN Trước Cơn Bão Thời Đại, trang 189-190) Tiếp theo, trong một đoạn kế, ngài viết: "… Có một cuốn sách rất nhỏ tìm được ở một hiệu sách ở Nam Định, trong đó tác giả đặt ra một số câu hỏi câu thưa để dân gian dễ hiểu về một số vấn đề như 'Dân chủ là gì?' 'Cộng hoà là gì?', 'Đế quốc là gì?' v.v. Trong các câu hỏi thưa, có một câu: 'Không tin vua là con trời, có đúng không?' - Thưa: 'Trời cũng không có, thì làm gì có con trời'. Lời tuyên bố công khai và gián tiếp về tôn giáo có thế. Còn trong thực tế, chỗ nào cũng rêu rao "tôn trọng tự do tín ngưỡng". Trong chiến tranh phá hoại (tiêu thổ kháng chiến), phải tôn trọng các nơi thờ tự. Thế nhưng ban đầu, cổ võ phá huỷ các nhà xây kiên cố để địch khỏi lợi dụng đóng bốt. Một số nhà thờ bị thiêu huỷ, chôn mìn ở trong, như Đồng Trì, Vĩnh Đà… bị thiêu huỷ hoặc bị đặt mìn để đánh sập. Một số nhà thờ như ở Kẻ Đại, Đồng Đội bị bom Pháp đánh sập. Những vụ bom đạn tàn phá như thế, người ta nghi có bàn tay Việt Minh dính líu. Có thể họ đưa một tin mật nào đó rằng, nơi nọ nơi kia có chứa vũ khí hoặc có Việt Minh hay bộ đội đang đóng ở đó. Thế là Pháp đến dội bom, hoặc bắn ca nông vào nơi đó" (Trang 190-191) Trong Hồi Ký toàn tập Phần Ba, người ta đọc được những giòng sau đây: "Chỉ có đảng Cộng sản Đông Dương vẫn ngấm ngầm hoạt động, nay xuất đầu lộ diện dưới danh hiệu Việt Minh. Việt Minh là tên tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, là mặt trận như họ nói 'bao gồm mọi đảng phái yêu nước, mục đích giành độc lập cho Việt Nam '. Đảng Cộng sản là linh hồn, là chủ yếu, là lãnh đạo của mặt trận. Sau này vỡ lẽ chỉ có hai đảng, đảng Xã hội, đảng Dân chủ. Hai đảng này cũng chỉ là cách nói của đảng Cộng sản chứ họ vẫn phải răm rắp theo đường lối của đảng Cộng sản. Cuộc gọi là "cách mạng" nay trở thành tên tuổi chỉ nhờ cách tô son vẽ phấn sau này, mà cách tô phết của cộng sản thì có tiếng". (HK toàn tập Phần Ba – Cái Nhìn Đối Với Việt Minh & Chủ Nghỉa Cộng Sản. Trang 276) "Cách Mạng Tháng Tám, ngày giành chính quyền vừa nổ ra được mấy hôm, tôi thấy Ban cho tôi xem tờ báo không nhớ tên là gì, chỉ trông rõ và ngày nay trong trí còn nhớ rõ dòng chứ lớn: Ủy ban cách mạng lâm thời do ông Hồ Chí Minh cầm đầu. Chưa nghe thấy tên ông Hồ Chí Minh bao giờ. Nghe cũng dễ nhớ, đọc cũng kêu đấy. Ban lại cho tôi biết: đó là ông Nguyễn Ái Quốc. Tên ông này thì tôi biết lắm. Tôi đã nghe nói về ông, cái tên ông nó cũng làm cho tôi vui: Ái Quốc! Cái tâm tình nung nấu tuổi trẻ khắp nơi khắp thời. Thế nhưng tôi biết ông là người cộng sản sống ở Nga. Tôi có đọc một vài tờ tuyên bố trong Tạp chí Cahier bằng tiếng Pháp, viết ở nước Nga. Tôi chỉ nhớ dưới những tuyên bố đó, có ký tên Nguyễn ái Quốc. Tôi e, e không dám nói, e sợ một chút, vì như thế chính xác ông là người cộng sản…" (Trang 279-280) Những giòng kế tiếp, tác giả viết: "Tôi cũng đã đọc cuốn Bức Màn Sắt (bản dịch cuốn Moscou sans voile), nhưng tôi hiểu sâu hơn về cộng sản khi tôi đọc cuốn Les dogmes du communisme (Những tín điều của chủ nghĩa cộng sản). Cuốn này tôi dịch ra tiếng Việt vào một kỳ nghỉ hè…" (…) Bầu khí chính trị lúc này thế nào? Nói đến hai chữ "Độc lập" người Việt Nam nào lại không phấn khởi sau hàng trăm năm mất nước. Bảo là đảng phái, phong trào ái quốc nổi lên để giành độc lập, nhưng hầu tất cả đều bị dẹp tan tành. Quốc Dân Đảng, rồi Đại Việt nay chỉ còn thoi thóp…. Họ là một đảng kỳ cựu, giầu chiến lược chiến thuật, được quốc tế cộng sản nâng đỡ, vì họ là một chi nhánh. Họ thay đổi hình dạng luôn luôn, nên họ dễ tồn tại và phát triển. Cái động lực giúp họ mạnh lên, luôn luôn là núp dưới tinh thần ái quốc. Lúc này mà nói đến cộng sản ra lãnh đạo, dân ta chắc không ai theo, trừ mấy người đã là cộng sản, nên họ đổi thành Việt Minh, vẫn ranh ma, vẫn khéo léo xoay chiều, luồn lọt…" (Trang 280-281) Cái nhìn sâu sắc của Đức Cha Phaolô về chính sách "tiêu thổ" & "cải cách ruộng đất" * Tiêu thổ kháng chiến: Tiếp theo biến cố gọi là "cuộc kháng chiến toàn quốc" nổ ra vào cuối năm 1946, Việt Minh phát động mạnh mẽ chiến dịch "tiêu thổ" mà ông Hồ gán cho ý nghĩa là phải tạo nên cảnh "vườn không nhà trống" để cho thực dân Pháp khi tiến vào các thị trấn các làng mạc của ta không còn có nơi trú quân. Lúc bấy giờ hầu hết người dân đều hiểu như thế và tin thật như thế. Vì vậy có những người quá hăng say, nhiệt thành với nghĩa vụ công dân đã tự đập phá nhà mình trước khi di tản. Nhưng tác giả Hồi ký đã sớm nhận ra ý định thâm sâu của những người cộng sản khi phát động rầm rộ chính sách gọi là "tiêu thổ kháng chiến".
Theo Đức Cha Phaolô thì nó chỉ là một âm mưu khởi đầu để nối tiếp bằng cuộc cải cách ruộng đất sau này nhằm hoàn tất chủ trương "cào bằng", triệt hạ những thành phần tư sản mại bản, địa chủ có nhà cửa, ruộng vườn để tiến lên cái gọi là xã hội chủ nghĩa, nói trắng ra là cộng sản. Trong Hồi Ký ngài viết: "Từ năm 1948, Nam Định lúc tôi về chỉ là một cảnh hoang tàn, do chính sách tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh. Ở đâu cũng thế, các thị xã, thành phố nhỏ như Nam Định, nơi không có quân chiếm giữ thì các nhà đều bị phá huỷ; các phố bên vệ đường cái quan cũng bị phá huỷ. Ở các làng, các xã, các nhà hai tầng, nhà lớn cũng bị đánh sập. Lí do, để quân đội Pháp khỏi lấy đó để đóng quân, làm bốt (poste), làm căn cứ địa. Lí do sâu xa nhất, để hạ người giầu, tiêu huỷ tài sản của họ, san bằng giai cấp. Tôi rõ điều đó, khi còn ở quê nhà hồi 1947, Lê Văn Ban cán bộ, em rể tôi một hôm về nhà mang theo tài liệu. Trong các tài liệu đó có nói: 'Chúng ta đã thắng lợi, một là phá hủy cửa nhà của bọn chúng, họ ở thành phố, mang theo ít đồ đạc đi sơ tán. Nay ta bảo khu này không an toàn, khu kia không an toàn; đồ đạc cồng kềnh chúng bán rẻ bán đắt hết, thế là chúng hai tay sạch không'. Đánh đổ quân đội Pháp là một mục tiêu; đánh đổ giai cấp tư bản là mục tiêu khác, còn quan trọng hơn. Vì giả sử có đuổi được quân đội Pháp, mà tư bản vẫn còn chễm chệ ngồi yên, thì đối với Việt Minh, cách mạng chưa kể là thành công. Phải tiêu diệt hai kẻ thù cùng lúc, mà kẻ thù tư bản cần phải được đánh gục hơn. Họ đã đạt mục đích đó ở thành phố Nam Định." (HK toàn tập Phần Một – Thời Thơ Ấu & Bước Đường Mục Vụ. Trang 99-100). Trong một chương khác, tác giả ghi nhận: "Cái 'chiến lược vườn không nhà trống' không phải chỉ để đối phương không còn chỗ đặt chân, mà nhất lả dân cư của vườn, của nhà không còn gì!" (HK toàn tập Phần Ba – Cái Nhìn Đối Với Việt Minh & Chủ Nghĩa Cộng Sản. Trang 307) * Cải cách ruộng đất: Đây là biến cố được tác giả Hồi Ký coi là "long trời lở đất" do đảng và nhà nước phát động ở miền Bắc giữa thập niên 50. Dù là một linh mục, nhưng với tâm tình yêu nước thiết tha, luôn gắn bó với nhịp sống nổi trôi, bất hạnh của người dân trong thời nhiễu nhương, tao loạn, đức cha đã quan sát từng đường đi nước bước của guồng máy cầm quyền trong tiến trình cải cách ruộng đất, từ giai đoàn các Đội Cải Cách được gửi về để "bắt rễ" tại các địa phương tới lúc phong trào lên cao với hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội bị đem ra đấu tố, bị xỉ nhục, bị giam cầm hay bị giết chóc thảm khốc. Một cách khái quát, tác giả Hồi Ký nhận định: "Cuộc cải cách ruộng đất nó dữ dội quá, giết nhiều người quá, đã làm hoen ố bộ mặt cộng sản luôn tuyên bố vì nước, vì dân, vì độc lập, với bao là chính nghĩa xuông." (HK toàn tập Phần Ba – Cái Nhìn Đối Với Việt Minh & Chủ Nghĩa CS. Trang 375) Đức Cha Phaolô khẳng định, cũng như mọi đường lối, chính sách khác, khi phát động cuộc cải cách ruộng đất, đảng và nhà nước cộng sản hoàn toàn rập khuôn những gì quan thày của họ đã thực hiện tại Liên Xô và Trung Cộng. "… Người Cộng sản Việt Nam học được kinh nghiệm của các anh Liên Xô, Trung Quốc, nên công cuộc được tổ chức rất chu đáo cặn kẽ, từ lúc phát động đến hoàn thành" Kinh nghiệm đó như thế nào? Theo trình thuật của tác giả Hồi ký thì: "Đầu hết là cái khẩu hiệu: 'Người cầy có ruộng' quá hợp tình hợp lý đi thôi. Cho được thế, đem ruộng đất ở tay những người có nhiều quá mà san sẻ cho những người không có tí nào! Đó cũng là lẽ công bằng. Nhưng làm sao để vui lòng san sẻ. Giáo Hội có luật công bằng, xã hội dựa trên bác ái. Cộng sản có phương châm đấu tranh dựa trên căm thù. Làm thế nào để khơi dậy căm thù, hay nói chung, để thành cán bộ cải cách, là đội cải cách?" (Trang 378) Theo nhận định bằng những thực chứng của Đức Cha Phaolô thì đây là một chính sách được chuẩn bị kỹ lưỡng với những nhân sự gọi là "đội cải cách" được đào tạo có bài bản trong những trường huấn luyện được xây dựng ở nhiều nơi. Đức cha viết: "…Những trường được xây dựng để đào tạo đội cải cách. Tôi biết một trường như thế ở Phủ Lý….. Người ta dạy gì trong trường? Tôi không rõ, tất cả là bí mật. Nhưng khi thấy công việc đội cải cách làm, thì biết họ học gì, được huấn luyện thế nào? Vậy đội cải cách đã làm gì? Xin hãy đọc những giòng HK sau đây: "… Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: 'Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…'. Người ngồi sau run sợ…! Một lúc nữa, đội lại nói: 'Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta'. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi? Sợ sệt và sợ sệt…! Ai nấy ngồi yên chỗ, bắt đầu cuộc 'đấu tố'. Tố cáo tội ác giai cấp bóc lột, đấu tranh đánh đổ giai cấp bóc lột đó. Mọi người bắt đầu cuộc kể khổ, để tố cáo tội ác của bọn địa chủ cường hào ác bá. Những tội ác được bịa đặt ra nhiều hơn và nặng nề hơn sự thật. '…Tôi vay hắn ta mấy bát gạo, hắn ta bắt tôi viết văn tự thế bằng một sào ruộng. Tôi không có gì trả, thế là hắn ăn không sào ruộng của tôi. Và cứ mấy lần vay như vậy, rồi không có gì trả, thế là không còn một mẩu đất để cắm dùi'. 'Tôi cấy tô cho nó, chẳng may trời để mất mùa, vì bão lụt, nó cứ thu tô như chẳng có tai hoạ gì xẩy ra. Chẳng có gì mà nộp, nó cho người đến tháo bộ cửa, dỡ mấy gian nhà tôi….' 'Tôi nghèo khổ, đi làm thuê cho nhà nó, ăn đói, ăn khát, nó còn đánh đập, tiền công không trả, nhà nó tìm cách đuổi tôi đi để quỵt công….' Và nhiều thứ tội khác, chung quy chỉ là tội tàn bạo, bóc lột, đổ trên những người bị quy là địa chủ, hay ác ôn, cường hào ác bá. Có thể là tội cá biệt nhưng nay là tội chung. Ai là đối tượng thì được khoác cho những tội đó. Người nông dân thật thà chất phác, mấy ai nghĩ ra được cách tố cáo, tất cả đã được dậy bảo, được Đội 'mớm' cho trước. Thế rồi đấu, đấu tranh với địa chủ, thì phải có khí thế, chưa quen thì phải tập. Chưa có ai xuất hiện để mà đấu, thì có thể dùng cái cột nhà thay thế. Bà con và nhất là các phụ nữ. Giơ tay xỉa xói vào cái cột nhà: 'Mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo, tao khó nhọc làm giầu cho mày, mà mày cho tao ăn đói ăn khát…'. Tất cả phải được nhuần nhuyễn, từ cử chỉ đến lời nói, để khi gặp 'người thật' không ngượng ngùng ái ngại. Đến nỗi mà một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị săn sóc hằng ngày. Chị nói với bố: 'Ông có biết tôi là ai không?'. Người cha ngậm ngùi nhìn đứa con dứt ruột của mình và nói:: 'Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ'. Lời thưa não nùng thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma quỉ nào đó đã thúc đẩy người con chất vấn người bố như thế? Cứ đó mà luận ra những người khởi xướng!" (Trang 381-382-382) Theo nhận định của Đức Cha Phaolô thì không ai khác, chính ông Hồ là người chịu trách nhiệm về kết quả kinh hoàng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc mà Trường Chinh Đăng Xuân Khu chỉ là một thứ "con dê tế thần". Ngài viết trong Hồi Ký như sau: "Tuy là Tổng bí thư Đảng, là lý thuyết gia của Đảng, nhưng ít người biết đến tên tuổi ông, đến mặt mũi ông. Ông được trao cho là người thừa hành kế hoạch cải cách ruộng đất, còn ông Hồ Chí Minh 'giả cách đứng ngoài'. Kế hoạch đó cũng đạt mục đích phần nào, vì sau này tai tiếng đều trút trên đầu ông Trường Chinh, mà 'Bác Hồ' là 'nhân từ' chỉ bị liên hệ chút ít. Nhưng làm sao mà che mắt được dư luận nhân dân. Ông Hồ là lãnh tụ tối cao, mà ông Trường Chinh chỉ là tay chân, làm sao công việc long trời lở đất đó lại qua mắt được lãnh tụ tối cao?…" (Trang 375-376) Giữa lúc cuộc cải cách ruộng đất đang tiến vào giai đoạn kinh hoàng nhất thì nhà cầm quyền lên tiếng là có sai lầm và ra lệnh sửa sai. Sửa sai như thế nào? Vì nhận ra là sai lầm nên sửa sai hay chỉ là một thứ đòn phép quen thuộc của những người cộng sản? Sự thật ra sao, chúng ta hãy đọc tiếp những chứng từ của cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng: "Lại bàn về sai lầm. Thiết nghĩ làm gì có thể sai lầm được? Giả sử chỉ có mình Việt Nam làm cải cách ruộng đất, chưa có đâu làm, thì còn có thể nói đến sai lầm. Đàng này các bậc thày, các bậc đàn anh đã làm, đã rút kinh nghiệm. Việt Nam chỉ việc lặp lại. Người ta đã tính từ trước sẽ có những sai sót. Có thể nói, những sai sót cố ý! Thà có giết nhầm mười người còn hơn để sót một thằng. Hoặc kinh nghiệm cho thấy là việc cải cách gây đau khổ nhức nhối chừng nào! Nên giả cách, có vài sửa sai chẳng vào đâu cả, để phần nào làm nguôi lòng dân." (Trang 408)) Ở một đoạn khác, tác giả Hồi Ký viết tiếp: "Trong cuốn Biên Niên Sử có nói: 'Cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành, mười triệu nông dân có ruộng cầy'. Một cuộc cách mạng long trời lở đất, mà kết quả có thế thì cũng khiêm tốn. Đó chỉ là cái khiêm tốn giả tạo, sự thực kết quả to lớn hơn vô cùng. Lấy được ruộng ở tay người địa chủ ra, không phải là việc dễ dàng. Phải có những bàn tay mạnh mẽ, đi tới tàn bạo của một chính thể độc tài chuyên chính… Lấy lại ruộng đất để chia cho những người cầy, không phải là mục tiêu chính của việc cải cách và chính việc cải cách cũng không phải là mục tiêu của cách mạng. Lấy lại ruộng đất chỉ là phương tiện để cải cách, chính việc cải cách cũng chỉ là phương tiện cho sự thống trị của giai cấp vô sản. Nói đúng ra cho sự thống trị của Đảng chuyên chính được thiết lập vững chắc. … Cải cách ruộng đất là một cách quét sạch những địa chủ, những cường hào ác ôn, ác bá, những người có uy tín, những người có mầm mống để vươn lên. Tất cả những gì mà cách mạng cho là đối nghịch, là nguy hiểm trong hiện tại và trong tương lai. Quét sạch, để cho xã hội trở nên một tờ giấy trơn, để Đảng muốn vẽ gì thì vẽ, theo ý mình." (409-410-411) Hóa ra tất cả chỉ là một tấn tuồng, một trò lường gạt, đối trá không tiền khoáng hậu, chưa từng thấy trong lịch sự mấy ngàn năm của dân tộc Việt. Rút cuộc, người nông dân Việt Nam chỉ là một đám nạn nhân ngây thơ, khốn khổ bị lợi dụng, bị xúi bẩy lao đầu vào những trò bất nhân man rợ của những cuộc đấu tố dẫn tới những cuộc tàn sát đẫm máu với cái mồi do đảng và nhà nước treo trước mắt là được chia chác tài sản, ruộng nương để cuối cùng vẫn trở về với cảnh khố rách áo ôm vì phải thực hiện khẩu hiệu "đoàn kết dân tộc, tiến lên xã hội chủ nghĩa" bằng cách phải trao nộp trở lại những mảnh đất nhỏ vừa được chia chác để tham gia "hợp tác xã"! Trong HK toàn tập Phần III, đức cha Phaolô viết: "Nông dân vô sản làm gì mà biết suy luận như thế? Người ta bảo đánh thì đánh, đập phá thì đập phá. Rồi họ mãn nguyện với mảnh bằng chứng thực. Họ được làm chủ mấy sào ruộng, để rồi ít lâu nữa sẽ rời những cái ghế chủ nhân. Bây giờ họ chưa biết thế đâu! Tấm bằng được trình bầy một cách rất lộng lẫy khổ 60 x 40 có ghi những chữ lớn với nét đỏ thắm: Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất. …Sau cuộc đấu tranh mệt mỏi, được thưởng bằng một tờ giấy có ghi: 'Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất' là hể hả. Nhưng còn phải giữ cái thành quả đó bằng 'tăng cường đoàn kết', rồi 'nâng cao cảnh giác'. Nâng cao cho đến lúc ruộng đất được đem đi dâng, còn lại mảnh bằng… …Mấy sào ruộng rồi sẽ đưa vào hợp tác xã để ông chủ lại đi cầy thuê… …Cái bầu trời phát quang, cái mặt đất phẳng lì lì. Muốn dựng lên cái gì thì dựng, với cái tính tàn khốc, tính quá khích, đã tạo nên bầu trời quang, và cái mặt bằng cái tính tình man rợ đó đã in sâu trong lòng, không biết phải bao nhiêu thế hệ mới xoá nổi chăng?" (Trang 413-414-419- 420) Vài giòng kết luận Trên đây là những nét chấm phá gạn lọc qua những chứng từ sống động của Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, cố Giám Mục phụ tá tổng giáo phận Hànội, dàn trải trên những trang Hồi Ký của ngài. Đấy là những giòng chữ được viết ra với tất cả tâm huyết của: * Một người mục tử nhân lành đã hiến trọn đời mình cho niềm tin Kitô giáo. * Một người công dân gương mẫu luôn hết lòng với tiền đồ quốc gia, dân tộc. Sau 92 năm tại thế, ngày 07-9-2009 cố Giám Mục Phaolô đã được Thiên Chúa gọi về. Tiền nhân Việt Nam có câu: "cọp chết để da; người ta chết để tiếng". Thân xác Đức Cha đã an nghỉ dưới lòng đất. Nhưng những chứng từ của ngài vẫn còn vang động trong lòng mỗi người chúng ta. Một câu hỏi lớn được đặt ra: liệu những chứng từ ấy có tạo nên được những âm vang nào đối với những thành phần có trách nhiệm léo lái con thuyền GHCG trên đất nước Việt Nam khốn khó hôm nay? Bắt chước cách nói của Jim Mulligan về cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị khi ông hay tin ngài từ giã cuộc đời, chúng ta có thể nói với cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng: Đức Cha đã dạy cho chúng tôi biết sống như thế nào. Đức Cha đã dạy cho chúng tôi biết can đảm đương đầu với sự dữ ra sao. Và hôm nay, sau khi đã nhắm mắt xuôi tay, Đức Cha vẫn còn tiếp tục dạy chúng tôi biết sống và biết chết cho lý tưởng làm người, cho niềm tin, cho công bằng và lẽ phải, qua cách sống làm chứng cho đời, cho đạo. Nam California, những ngày đầu tháng 11, 2009 tháng kính nhớ các Linh hồn, cách riêng, nhớ về Đức cố Giám Mục Phaolô Thứ hai 14 Tháng Năm 2012
Chính quyền Việt Nam gia tăng trấn áp tín đồ đạo Hà Mòn - Gia Lai Tuần qua, chính quyền Gia Lai thông báo huy động một trung đoàn cảnh sát cơ động tấn công bắt giữ hơn 60 tín đồ đạo Hà Mòn. Thông tin của nhà nước quy cho những người Thượng này nhiều thứ tội : từ mê tín đến phản động chống chính quyền nhưng không cung cấp bằng chứng thuyết phục. Bản tin ngày 09/05/2012 của AFP nhắc lại những vụ nổi dậy của người Thượng trong năm 2002 và 2004 chống nạn cưỡng chế đất đai. Vùng Tây nguyên vẫn bị an ninh giám sát chặt chẻ và cấm phóng viên quốc tế thăm viếng. Tình cảnh của người Thượng theo đạo Thiên Chúa hiện nay ra sao? RFI đặt câu hỏi với Tổng thư ký Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế, trụ sở tại Frankfurt, Cộng Hòa Liên Bang Đức. RFI : Kính chào ông Vũ Quốc Dụng, Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế mà ông là Tổng thư ký có thông tin gì thêm sau vụ báo chí trong nước hôm 09/05/2012 đưa tin một số tín đồ Giáo hội Hà Mòn bị bắt về tội liên hệ với Mặt trận Fulro. Giáo hội này là gì? " Chúng tôi thu thập thông tin về đạo Hà Mòn qua các nguồn của Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Thí dụ một bài của báo Công An (CA) vào giữa năm 2010 cho biết đây là một giáo phái công giáo xuất phát từ xã Hà Mòn tỉnh Kontum và tin vào việc "Đức Mẹ Maria hiện hình“ cũng như ngày tận thế. Chúng ta biết trên thế giới có rất nhiều giáo phái Cơ đốc tin tưởng như vậy. Đó là quyền tự do có niềm tin tôn giáo của họ. Luật nhân quyền quốc tế công nhận Quyền tự do có tôn giáo này và tuyết đối cấm việc xâm phạm nó. Nhưng trong bài báo của công an vừa nói, tôi lại đọc thấy những danh từ có tính phỉ báng tôn giáo thí dụ như gọi đó là "tà đạo độc hại, chuyên lừa phỉnh người nhẹ dạ tin vào những điều bậy bạ và nhảm nhí“. Thế nào là nhảm nhí? Bài báo này cho sự tin vào việc "Đức Mẹ Maria hiện hình“ là nhảm nhí. Từ một thái độ mang tính thù ghét tôn giáo và miệt thị những người sắc tộc theo đạo như vậy chính quyền VN đã xem bất cứ sinh hoạt nào của tôn giáo này là "gây chia rẽ đoàn kết dân tộc và giữa các tín đồ tôn giáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự và đời sống người dân“. Phải nói rằng bài này không cung cấp một thông tin nào để chứng minh ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự“ của đạo Hà Mòn. Theo tôi, cách trình bày cường điệu này nhằm mục đích gây ấn tượng rằng người theo đạo Hà Mòn là những người phạm pháp ghê gớm ." RFI : Nhưng tại sao Hà Mòn bị quy tội liên can đến Fulro? Thưc tế là Fulro có đe dọa gì cho chế độ? Đây chỉ là cái cớ để công an quy buộc để trấn áp tôn giáo hay lập công? Cũng theo bài báo Công An nói trên, người theo đạo Hà Mòn bị đàn áp tôn giáo đã phải trốn tránh và trong khi khi trốn tránh thì đã “liên lạc và nhận sự chỉ đạo của số đối tượng cầm đầu Fulro lưu vong.” Theo thông tin của chúng tôi, FULRO là một phong trào đầu tranh vũ trang đòi tự trị ở Việt Nam Cộng Hòa trước đây nhưng đến năm 1992 thì tuyên bố giải tán ở Kampuchia vì những người chống đối bị chính quyền Cộng sản tiêu diệt gần hết và Hoa Kỳ nhận cho định cư khoảng 400 người FULRO lúc đó đang tị nạn ở Kampuchia. Từ đó đến nay chúng tôi không ghi nhận bất cứ hoạt động vũ trang nào của nhóm FULRO. Thỉnh thoảng, chính quyền Cộng sản Việt Nam tuyên bố bắt được hoặc đưa ra xử tù các thành viên FULRO nhưng những bằng chứng được trưng ra chỉ toàn là điện thoại di động, SIM cạc, giấy tờ, cùng lắm là vài cái giáo mác, rựa, dao găm, hay cung, nỏ mà thôi. Đây là những dụng cụ của người đi rừng cho nên không có tính thuyết phục gì cả. Ngay cả bức hình về mấy khẩu súng trường mà báo Công Lý dùng để minh họa cho việc bắt giữ 62 theo đạo Hà Mòn bị xem là “có hoạt động chống phá chính quyền” ở Gia Lai vừa rồi cũng chỉ là bức hình chụp từ một viện bảo tàng chứ không phải là hung khí hay vật chứng thực sự. Theo tôi với vài cái điện thoại di động và cung nỏ sơ khai thì những người bị bắt không thể đe dọa an ninh quốc gia được. " RFI : Tình trạng giam giữ người Thượng hiện nay như thế nào? Chúng ta biết rằng người Thượng sống ở các vùng xa xôi hẻo lánh, ít có phương tiện thông tin tân tiến như internet hay điện thoại di động cho nên thông tin về họ rất ít và dễ bị bưng bít. Chúng ta biết rất ít về các cuộc biểu tình tập thể vào các năm 2001, 2004 và 2008 cũng như các hệ quả của nó. Có thể có đến vài trăm người đã bị bắt mà không ai biết rõ số phận của họ cả. Tôi cho đây là vấn đề cần được quan tâm đúng mức hơn nữa vì nội danh sách tù nhân người Thượng mà tổ chức chúng tôi kiểm chứng được đã lên trên 100 trường hợp và còn dài hơn danh sách tù nhân chính trị người Kinh. Các tù nhân người Thượng này bị buộc vào những tội xâm phạm an ninh quốc gia và bị kết án rất nặng, đến 17 năm tù. Họ bị đưa đi giam ở những trại tù phía Bắc, nghĩa là xa gia đình họ trên 1.200 Km. Khoảng cách lớn này gây khó khăn cho việc thăm nuôi rất nhiều, nhất là đối với các gia đình người Thượng vốn đã nghèo. Tôi chưa thấy tù nhân người Kinh nào – ngoại trừ bà Bùi Minh Hằng – bị giam xa như vậy. Đây là một sự kỳ thị có chủ ý. Một vấn đề khác là điều kiện giam giữ. Tù nhân người Thượng thường dễ bị chèn ép hơn các tù nhân chính trị người Kinh, từ việc cưỡng bức lao động cho đến các phương tiện sinh hoạt. Họ cũng dễ bị đưa đi giam kỷ luật thường đi đôi với biện pháp cùm chân là một hình phạt của thời Trung cổ." RFI : Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế đã và có thể làm gì cho nạn nhân người Thượng? Như đã nói ở trên, số phận của người Thượng bị tù đày ít được người Việt lẫn quốc tế quan tâm đến, có thể là do thông tin bị hạn chế. Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế ISHR sẽ tiếp tục cập nhật và gửi danh sách tù nhân người Thượng đến các quốc gia cấp viện cho Việt Nam để xin hỗ trợ việc đòi trả tự do cho họ. Trong mấy tháng vừa qua chúng tôi ghi nhận có những đợt chuyển trại lớn đối với các tù nhân chính trị, trong đó có tù nhân người Thượng. Nói chung việc chuyển trại luôn luôn gây thêm khó khăn trong việc liên lạc giữa tù nhân và gia đình cho nên cần phải tránh. Thí dụ việc chuyển trại thế nào cũng gây ra gián đoạn thăm nuôi vì trại tù không bao giờ báo kịp về cho gia đình. Nhiều gia đình đến trại cũ thì mới biết thân nhân không còn ở đó nữa và từ nay phải đi một trại xa hơn để thăm nuôi. Chúng tôi cũng tố cáo tình trạng giam giữ tù nhân Tây nguyên xa nhà là một hành vi bất nhân. Việc giam họ ở các trại tù ở phía Bắc đã gây cản trở và tạo khó khăn cho thân nhân của họ đi thăm nuôi. Nhiều người trong mấy năm trời mà không được thăm nuôi lần nào. Nhiều gia đình quá nghèo nên không thể gửi quà bằng bưu điện chứ đừng nói gì đến việc thăm nuôi. Điều quan trọng nhất là chúng tôi kêu gọi các tòa đại sứ ở Việt Nam nên đến thăm các trại giam và các gia đình tù nhân người Thượng. Cho đến nay chúng tôi ghi nhận có các phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ, Liên minh Âu Châu (EU) và Úc đi thăm tỉnh Đắc Lắc nhưng chưa có phái đoàn nào được phép đi thăm tỉnh Gia Lai là nơi có nhiều tù nhân Tây nguyên hơn là Đắc Lắc. Những chuyến viếng thăm như vậy sẽ cung cấp thêm thông tin trung thực và chính xác hơn về thực trạng đàn áp những sắc tộc ở Tây nguyên. Vũ Quốc Dụng, Tổng thư ký Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế, Frankfurt, Đức quốc.
Sau thánh lễ khai mạc HÀNH HƯƠNG MẸ LA VANG 2012 tại nhà thờ Mẹ Việt Nam, Silver Spring, Maryland (TGP Washington, DC), Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long đã chia sẻ với cộng đoàn dân Chúa với chủ đề MẸ LA VANG VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM... http://liendoanconggiao.net/index.php?option=com_content&view=article&id=4172:me-la-vang-voi-dan-toc-viet-nam&catid=85:tin-tuc-thong-bao&Itemid=375 Kính thưa quý ông bà anh chị em, Hôm nay, tôi rất hân hạnh được đến Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn để tham dự cuộc Hành Hương kính Đức Mẹ La Vang do Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức. Lời đầu tiên, tôi xin được gởi đến toàn thể quý vị đó là lời chúc sức khoẻ, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa. Xin Ngài kiện toàn thánh ý nhiệm mầu của Ngài nơi chúng ta, những chứng nhân của tự do, công lý và nhân bản. Tôi cũng xin được chuyển lời chào thân thương của đồng bào chúng ta tại Úc Đại Lợi luôn hướng về khối người Việt tại Hoa Kỳ như là con chim đầu đàn của đàn chim Việt đang tản mác khắp bốn phương trời. Dù ở đâu, người Việt Nam chúng ta cũng cố gắng để làm rạng danh ‘con Rồng cháu Tiên’ và cùng tranh đấu cho một tương lai tươi sáng của quê hương dân tộc. Chủ đề mà Ban Tổ Chức đã mời tôi đến để chia sẻ với quý vị tối nay là “Mẹ La Vang với dân tộc Việt Nam.” Tôi phải thú thật là khi nhìn vào một chủ đề như thế, tôi không biết phải nói gì để khỏi phụ lòng mong đợi của quý vị. Nhiều người nghĩ rằng, giám mục thì có thể nói về bất cứ vấn đề gì. Thực tế thì không như thế. Ở lứa tuổi 50 và sống hai phần ba đời mình ở Úc, tôi cũng chỉ có một kiến thức giới hạn – nhất là về những vấn đề liên quan đến Việt Nam. Tôi không thể ‘xuất khẩu thành thơ’ và càng không thể ‘múa rìu qua mắt thợ’ trước một cử tọa ở cái nôi chính trị và văn hóa của Hiệp Chủng Quốc này. Ước mong của tôi là được chia sẻ và học hỏi hơn là được ‘thuyết giảng’ về mối liên quan giữa tôn giáo và dân tộc – nhất là trong hoàn cảnh đất nước chúng ta hôm nay. Tôi cũng đại diện cho một thế hệ trẻ được hấp thụ hai nền văn hoá khác nhau. Vì thế, ước mơ của tôi là làm một nhịp cầu giữa hai thế hệ, ngõ hầu ngọn đuốc của tự do và công lý được chuyển tiếp cho đến ngày quê hương mến yêu được phục hưng. Để tìm hiểu về sự tương quan của “Mẹ La Vang với dân tộc Việt Nam,” chúng ta có thể nhìn vào một dân tộc mà lịch sử của họ cũng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam chúng ta, đó là Ba Lan, quê hương của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Ba Lan, một quốc gia bị ngoại bang xâm chiếm nhiều lần, và trong lịch sử cận đại đã chịu nhiều tang tóc hơn các dân tộc khác, với hơn sáu triệu người chết trong Đệ Nhị Thế Chiến.
Hơn thế nữa, Ba Lan đã sống dưới bóng của tên khổng lồ không mấy tử tế là Liên Bang Xô Viết và chế độ Cộng Sản hơn bốn thập niên. Trong suốt những năm dài tăm tối đó, người dân Ba Lan đã hướng về một thánh địa tượng trưng cho tinh thần dân tộc và ý chí bất khuất của họ, đó là Jasna Gora – một địa danh có nghĩa là Núi Sáng (Luminous Mount) hoặc có thể tạm dịch là Minh Sơn. Nơi đây, Đức Trinh Nữ Maria dưới danh hiệu Đức Mẹ Czestochowa được sùng kính như là Đấng Bảo Vệ cho dân tộc Ba Lan qua bao thăng trầm của lịch sử.
Đức Mẹ Czestochowa có nghĩa là ‘Đức Mẹ Đồng Đen’ Tục truyền rằng, vào năm 1655, khi quân Thụy Điển chuẩn bị xâm chiếm Ba Lan, những người lính trên đồi Jasna Gora đã cầu nguyện với ảnh Đức Mẹ Đồng Đen và họ dù yếu thế hơn đã đẩy lui được quân Thụy Điển. Từ đó, Đức Mẹ Czestochowa được mệnh danh là Nữ Vương nước Ba Lan và đồi Jasna Gora được coi như thánh đô của họ. Vào năm 1920, khi Hồng Quân Liên Xô ồ ạt đánh vào Warsava, một lần nữa người dân Ba Lan lại chạy đến với Đức Mẹ Czestochowa. Không ai có thể giải thích nổi, với một đạo quân hùng mạnh nhất Âu Châu thời đó, Hồng Quân Liên Xô đã bị đánh bại ở dòng sông Vistula – một chiến thắng không ngờ, như Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm xưa (938). Với lịch sử dân tộc gắn liền với đức tin Công Giáo và đặc biệt là lòng sùng kính Đức Mẹ, chúng ta không ngạc nhiên khi Jasna Gora trở thành một biểu tượng không thuần túy về tôn giáo mà là một biểu tượng cho tinh thần quốc gia và niềm tự hào dân tộc. Mỗi khi quốc gia bị mất chủ quyền và dân tộc bị đàn áp, người dân Ba Lan đã tìm đến Jasna Gora không phải chỉ nguyện xin mà còn tìm một lối thoát cho quốc gia và một tương lai mới cho dân tộc. Chính vì thế, trong những năm gọi là ‘chiến tranh lạnh’, khi bạo quyền Cộng Sản Ba Lan, được sự chỉ đạo của Điện Cẩm Linh, dập tắt tất cả các ngọn lửa đấu tranh cho nhân quyền, Jasna Gora đã trở nên thành lũy đối kháng và linh hồn của phong trào chống cộng.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 1982, tức ngày Lễ Kính Đức Mẹ Czestochowa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói những lời tâm huyết với đồng bào mình còn đang sống sau cái gọi là ‘bức màn sắt’ và đang tranh đấu cho tự do. Ngài nói như sau: "Đồng bào thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào, xin cho chúng ta thâm tín rằng cuộc đời của chúng ta đã thuộc về Trái Tim Mẹ. Như Mẹ đã toàn thắng nơi Thánh Maximiliano Kolbe, người Hiệp sĩ của Đấng Khiết Trinh, xin Mẹ cũng toàn thắng nơi chúng ta" "Xin Mẹ Jasna Gora toàn thắng nơi chúng ta và qua chúng ta. Xin Mẹ toàn thắng ngay cả qua những đau khổ và thất bại của chúng ta. Xin Mẹ cho chúng ta đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm của con người. Chẳng phải lời của Mẹ ở tiệc cưới Cana ‘Hãy làm theo mệnh lệnh của Ngài’ có nghĩa như vậy sao? Anh chị em hãy nhớ rằng, sức mạnh được thể hiện qua sự yếu đuối. Tôi ở gần anh chị em. Tôi luôn nhớ tới anh chị em.” Đọc những lời của Đức Thánh Cha, tôi không có cảm tưởng là tôn giáo và chính trị là hai thái cực mà người tín hữu không được lẫn lộn. Ngược lại, sự nhập thể của Thiên Chúa vào đời sống của con người đòi buộc chúng ta cũng phải ‘nhập thể’ dưới ánh sáng Tin Mừng.
Như lời mở đầu Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng) của Công Đồng Vaticano II đã khẳng định “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô,” Chân phước Gioan Phaolô II đã cho chúng ta thấy rằng, tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm không phải là việc làm của những kẻ muốn chính trị hóa tôn giáo mà là bổn phận ‘nhập thể hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô hóa’ môi trường của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ, nếu chúng ta chỉ đóng khung tôn giáo trong những vấn đề siêu nhiên mà hoàn toàn vô cảm với những vui mừng và hy vọng, những sợ hãi và lo âu của đồng loại, thì phải chăng tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ chúng ta như lời Karl Marx? Đây cũng là chiêu bài của cộng sản. Họ muốn tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng. Họ muốn biến tôn giáo trở thành một công cụ của chế độ. Cách đây không lâu, tôi có nghe một câu nói rất hùng hồn: “Nếu ai không thích cộng sản, người ấy không nên yêu cầu chúng tôi khích bác họ.” Đằng sau câu nói này là một khó khăn thực tế cho những ai phải sống dưới chế độ cộng sản. Trong bối cảnh đất nước và giáo hội Việt Nam hôm nay, sự liên quan giữa chính trị và tôn giáo quả thật là một đề tài hết sức tế nhị cho người tín hữu, nhất là các vị lãnh đạo. Làm sao để giữ được một lợi thế thực dụng cho giáo hội mà không thỏa hiệp các giá trị cơ bản của Phúc Âm? Làm sao thăng tiến đời sống đạo và lo cho các nhu cầu của các giáo xứ, các dòng tu, các chủng viện v.v... và đồng thời làm trách nhiệm ngôn sứ trong một xã hội độc tài đảng trị? Đó là một số những mệnh đề nan giải mà những ai sống với cộng sản mới biết những phức tạp của nó. Ở đây, tôi không có ý phê bình câu nói hùng hồn trên kia hay một thái độ nào đó của các vị lãnh đạo giáo hội trước tình hình chính trị của đất nước. Tuy nhiên, như Đức Cố Giáo Hoàng Phaolo II đã quảng diễn qua lời giảng dạy, thái độ và đời sống của ngài, Kitô hóa môi trường theo tôn chỉ Phúc Âm là nhiệm vụ của mọi tín hữu. Tranh đấu cho công lý và sự thật, tự do và nhân phẩm là con đường tất yếu của những ai theo Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Vì thế, vấn đề ở đây không phải là chúng ta ‘không thích cộng sản’ hay ‘khích bác họ.’ Vấn đề ở đây là chọn lựa của chúng ta giữa hai thế lực tương phản: sự thật và sự giả dối, sự thánh thiện và sự gian ác, ánh sáng và bóng tối. Vâng, người tín hữu phải yêu thương cả kẻ thù, kể cả người cộng sản. Nhưng chúng ta không thể đồng lõa và vô cảm với sự giả dối, gian ác và phi nhân của họ. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và nhiệt tâm cho Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc chiến cho công lý và sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức Kitô đã tranh đấu và khải hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài.
Quý vị thân mến, Nếu người dân Ba Lan đã coi Đức Mẹ Czestochowa như là biểu tượng niềm tin của họ, thì người Việt Nam chúng ta có thể coi Đức Mẹ La Vang như là biểu tượng niềm tin của chúng ta hay không?
Hơn thế nữa, nếu Jasna Gora đã hun đúc tinh thần đấu tranh cho quê hương và cho giáo hội Ba Lan trong những chặng đường cam go nhất của lịch sử dân tộc Ba Lan, người Việt Nam Công Giáo chúng ta có thể đến với Mẹ La Vang trong nỗ lực tìm kiếm một tương lai tươi sáng cho đất nước và giáo hội hay không? Đối với tôi, những câu hỏi này thật thiết thực với bối cảnh của quê hương chúng ta hôm nay. Đối với tôi, đây không phải là ‘chính trị hóa’ La Vang mà là đem Phúc Âm vào lòng dân tộc và là thực thi vai trò ngôn sứ của chúng ta trong một xã hội đang mất căn tính nhân bản. Nói một cách khác, nếu người tín hữu chúng ta phải như ‘thành phố xây trên núi’ hay như ‘muối men cho đời,’ thì vai trò phục hồi cho xã hội một căn tính nhân bản trên những giá trị Phúc Âm là vai trò thiết yếu của chúng ta.
Câu Kinh Đức Mẹ La Vang “Xin cho chúng con tấm lòng từ bi nhân hậu, đại lượng bao dung, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống” sẽ không có ý nghĩa khi người tín hữu chúng ta vô cảm trước hiện tình một xã hội băng hoại toàn diện đang diễn ra trên quê hương chúng ta. Như quý vị đã biết, trong những ngày gần đây, giáo hội tại Hoa Kỳ đang tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo qua những cuộc biểu tình rầm rộ, những kháng cáo trước tòa án cũng như qua các phương tiện truyền thông. Lý do là gi? Đó là việc chính phủ của Tổng thống Obama đã đề xướng ra một đạo luật về y tế mà theo đó, tất cả các tổ chức kể cả tổ chức Công Giáo phải cung cấp bảo hiểm phổ quát bao gồm ngừa thai cho các nhân viên của mình. Các giám mục Hoa Kỳ đã không ngần ngại đương đầu với chính sách ‘Obamacare’ mà họ cho rằng đi ngược lại với luân lý Công Giáo và hơn thế nữa giới hạn quyền tự do của giáo hội trong việc hành xử theo giáo luật. Giáo hội không thể làm ngược lại tôn chỉ của Phúc Âm nếu bị bắt buộc phải cung cấp dịch vụ phá thai hay ngừa thai – dù chỉ là gián tiếp – trong các bệnh viện của mình hay tài trợ các dịch vụ này cho các nhân viên của mình như tại trường học, giáo xứ, cơ sở xã hội v.v... Chính vì thế, các giám muc Hoa Kỳ đã không ngần ngại đứng lên bảo vệ những giá trị mà họ cho là không thể nhượng bộ dù là trong một xã hội đa nguyên. Nhiều giáo dân và ngay cả một số giáo sĩ Hoa Kỳ không đồng quan điểm với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Nhưng ít ra, không ai có thể chỉ trích là họ đã can thiệp vào chính sách của nhà nước hay là họ đã vượt qua giới hạn tôn giáo thuần túy. Phúc Âm và đời sống không thể tách lìa nhau; tôn giáo và chính trị không thể không liên hệ với nhau. Vai trò ngôn sứ của Giáo hội đòi buộc người tín hữu ở mỗi bậc và mỗi hoàn cảnh phải tranh đấu cho một xã hội phản ảnh Vương Quốc của Thiên Chúa, hay như Kinh Đức Mẹ La Vang, là xây dựng một ‘nền văn minh tình thương và sự sống.’ Thực thế, truyền thống công lý xã hội trong Kinh Thánh là bằng chứng hùng hồn về sự nhập thế của các giá trị siêu nhiên vào đời sống tự nhiên của con người. Ơn cứu độ không chỉ có nghĩa là một sự giải thoát của linh hồn và đời sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc mà là sự giải thoát con người toàn diện. Ngay trên cõi đời này và ngay trong xã hội này, con người được mời gọi để sống cuộc sống sung mãn với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, sống đức tin và sống thánh thiện không chỉ có một chiều dọc, tức là thờ phượng kính mến Chúa được quảng diễn qua xây nhà thờ, tu viện, trung tâm, lễ nghi, kinh kệ, rước sách, đình đám, hành hương, ăn chay hãm minh v.v... Sống đức tin và sống thánh thiện không thể tách lìa khỏi tiến trình công lý hóa xã hội và phong phú hóa đời sống con người. Tiên tri Isaiah đã định nghĩa cho chúng ta thế nào là giữ đạo, đó là “phá vỡ xiềng xích của bọn ác nhân, cất đi gánh nặng của kẻ lầm than, giải thoát cho kẻ bị áp bức và phá tan mọi gông xiềng” (Isaiah 58:6). Đức Kitô cũng đã đúc kết sứ mạng của Ngài trong câu nói đầy ý nghĩa và súc tích: “Ta đến để mọi người được sự sống và sự sống viên mãn” (Gioan 10:10). Sự sống viên mãn không phải chỉ là ở đời sau. Nó là sự sống toàn thể trọn vẹn. Nó là sự sống trong yêu thương, trong công lý, trong tình người từ bây giờ và mãi mãi. Ở bên Úc, có rất nhiều người hỏi tôi là họ phải làm gì khi nhận những lá thư hay những lời kêu gọi giúp đỡ giáo hội quê nhà. Nào là xây nhà thờ, sửa tu viện, tu bổ trung tâm hành hương, nâng cấp địa điểm truyền giáo.... rồi nào là giúp cô nhi, người tàn tật, các chị em lầm lỡ [tôi không mấy ưa nhóm chữ này vì nó có vẻ kỳ thị giới tính quá. Còn các anh lầm lỡ đâu?] Có nhiều người còn nói là họ rất sợ vô đoàn thể, vì đó là những nơi bị xin tiền! Tôi trả lời với họ rằng chúng ta không nên vô cảm nhưng cũng không nên tạo một gánh nặng cho mình hay cho người khác. Tôi cũng nói thêm là trên hết mọi sự giúp đỡ, anh chị em hãy tham dự vào tiến trình công lý hóa cho dân tộc. Vì sao? Vì căn nguyên của sự nghèo đói và của những nỗi nhục quốc thể ở trong nước cũng như ở ngoài nước là hệ thống chính trị lỗi thời, là chế độ cộng sản tham nhũng, bất công và phi nhân. Tôi sẽ không bao giờ ngần ngại để nói lên sự thật phũ phàng đó. Tôi sẽ không bao giờ tách lìa lý tưởng một Việt Nam phi cộng sản và một Việt Nam nhân bản ra khỏi sứ mạng giám mục của tôi. Nhiều người Công Giáo quan niệm rằng, đạo và đời là hai thực thể riêng biệt. Chính vì thế, câu nói “người Công Giáo không làm chính trị” đối với họ đã trở thành sự biện minh cho thái độ vô cảm hay chủ trương không tham dự vào những vấn đề xã hội và đất nước. Một số quý vị lớn tuổi ở đây chắc đã từng trải qua thời kỳ Việt Minh vào những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ở Bắc Việt, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, là một vị tiền nhiệm của Đức Giám Mục Nguyễn Năng hiện nay, đã có thời lập ra khu Bùi Chu - Phát Diệm tự trị với cả những đội vũ trang Tự vệ Công giáo, chống lại chính quyền Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đối với ngài cũng như rất nhiều giám mục miền Bắc trong thời kỳ đó đã không ngần ngại dấn thân cho quê hương và có thể nói vượt qua cái ranh giới thông thường của đạo và đời, tôn giáo và chính trị. Hôm nay, tôi không có ý hoài niệm về một quá khứ mà nhiều người trong thế hệ cha anh rất tự hào về giáo hội Việt Nam; tôi càng không có ý cổ võ một con đường chống đối bạo động dù đối với chế độ vong bản phi nhân.
Tuy nhiên, khi lấy cuộc sống sung mãn làm mục đích, chúng ta không thể mặc nhiên để sự ác hoành hành khống chế xã hội. Sự ác này không những thể hiện nơi cá nhân hay đoàn thể. Tôi cho rằng sự ác lớn nhất đang hoành hành trên đất nước chúng ta hôm nay chính là tà quyền và hệ thống chính trị đưa con người vào chỗ bế tắc. Có nhiều người sẽ không đồng thuận với nhận xét và quan điểm ở trên của tôi. Họ dẫn chứng rằng: Việt Nam đã có ít nhiều tự do tôn giáo. Nhà thờ, dòng tu, chủng viện v.v... được xây cất tu bổ một cách rầm rộ. Giáo dân đi lễ không còn chỗ ngồi. Ơn gọi không còn chỗ chứa. Bây giờ, cái khó không phải là do chính phủ hay công cụ của họ như công an cảnh sát gây nên. Cái khó là do đời sống luân lý đạo đức suy đồi của người dân, đặc biệt là giới trẻ... Tôi không phủ nhận những thử thách đến từ sự mất hướng đi, lối sống buông thả và hưởng thụ vô trách nhiệm của thế hệ hôm nay, cũng như đã xảy ra cho thế hệ hôm qua. Nhưng tôi cho rằng những thử thách về đời sống luân lý vẫn ở mãi với chúng ta từ đời này qua đời khác. Cái khác là trong một xã hội bị cai trị bởi một tà quyền và hệ thống chính trị gian dối ác độc, những thử thách ấy mang một sắc thái tiêu cực và bi đát hơn.
Khi một chế độ không cho giới trẻ một tương lai, không tạo cho họ một niềm tự hào, không cho họ cơ hội phát huy tài năng; khi một chế độ chỉ cho họ tiến thân qua thẻ đảng, khi chỉ có ‘còn đảng mới còn ta’ thì làm sao tránh được sự tuyệt vọng, sự mất hướng đi và sự bất cần của giới trẻ. Hãy cứ hỏi những cô dâu đi lấy chồng Đài Loan, Nam Hàn, những người lao động hợp tác ở Mã Lai, ở Arab Saudi và thậm chí ở cả Phi Châu, những người di dân bất hợp pháp ở Đông Âu, những em bị bán làm nô lệ tình dục ở Thái Lan, những người dân oan bị cướp đất, các công nhân bị bóc lột ở các hãng xưởng, những người trẻ trong các ‘chat-room’ v.v... Có lần đi Macau, tôi gặp một số bạn trẻ Việt Nam lao động bất hợp pháp. Họ bị đối xử tàn tệ mà tòa đại sứ Việt Nam hoàn toàn không can thiệp. Tôi không nghĩ là trong các nước không cộng sản không có những vấn nạn xã hội của họ – ngay cả trên đất nước Hoa Kỳ này. Nhưng một điều không thể chối cãi được là trong nước ta hôm nay, nhiều những hiện tượng tôi đan cử trên là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử oai hùng của nước ta và là những nỗi nhục quốc thể cho những ai mang dòng máu Việt. Những hiện tượng này là triệu chứng của một cơn bệnh trầm kha: một thể chế hoàn toàn băng hoại và dẫn cả dân tộc vào chỗ bế tắc.
Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI có nhắc nhở cho người Công Giáo là “Giáo Hội không làm chính trị nhưng cũng không đứng bên lề xã hội.” Lịch sử Việt Nam qua nhiều thời đại đã minh chứng được sự dấn thân của người tín hữu thuộc mọi thành phần giáo hội vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Thế nhưng trong những năm gần đây, sự ru ngủ lương tri của giáo hội đã trở thành một hiện tượng phổ biến nằm trong chính sách công cụ hóa tôn giáo của chính quyền cộng sản. Các nhóm chữ như ‘tôn giáo và dân tộc,’ ‘tốt đời đẹp đạo,’ ‘giáo dân tốt công dân tốt,’ ‘kính Chúa yêu nước’ và ‘đồng hành cùng dân tộc’ đã trở thành những viên thuốc an thần để ru ngủ lương tri và vô hiệu hóa vai trò ngôn sứ của giáo hội. Khi “đồng chí” Lê Hồng Anh, thường trực Ban Bí Thư, đi thăm Đức Cha Bùi Tuần nhân dịp Giáng sinh 2011, “ông bày tỏ tin tưởng đồng bào có đạo tiếp tục phát huy truyền thống kính Chúa yêu nước” (nguyên văn của báo Sàigòn Giải Phóng). Rồi sống sượng hơn nữa, “đồng chí” Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ Tướng, tại La Vang năm 2010 đã ban huấn từ cho cả các giám mục Việt Nam về việc mà ông gọi là “đồng hành cùng dân tộc.” Cái điều mà người Tây phương gọi là ‘elephant in the room’ tức là điều ai cũng nhận ra là đảng đã tự tôn mình ngang hàng với dân tộc thay vì là ‘đầy tớ của nhân dân’ như họ vẫn rêu rao. Bằng chiêu bài đồng hóa đảng với dân tộc họ biến lòng yêu nước thành yêu đảng, và chống đảng là chống lại dân tộc. Điều đáng buồn là liều thuốc an thần này đang làm ru ngủ và làm vô cảm lương tri của nhiều người Việt Nam, kể cả người tín hữu. Đồng hành cùng dân tộc không thể là đồng hành cùng chế độ, nhất là khi chế độ đó đang đưa dân tộc vào chỗ diệt vong. Quý vị thân mến, Trở lại câu hỏi là chúng ta có thể đến với Mẹ La Vang trong nỗ lực tìm kiếm một tương lai tươi sáng cho đất nước và giáo hội hay không, niềm xác tín của tôi là đây là bổn phận của người tín hữu. Như người Công Giáo Ba Lan, cũng như ở khắp mọi nơi, chúng ta người tín hữu Việt Nam cũng cùng Mẹ để hành trình tiến về sự sống sung mãn cho đất nước và cho dân tộc.
Ở trên, tôi đã chứng minh là đây là sự nhập thể hóa đức tin và là bổn phận Phúc Âm hóa môi trường xã hội của người môn đệ Chúa Giêsu. Bây giờ, tôi xin được hướng về chính Đức Trinh Nữ Maria như là một ‘mẫu người lữ hành trong đức tin’ và là một ‘đầy tớ can trường của công lý.’ Có lẽ đối với nhiều người Công Giáo Việt Nam, họ ít khi nào dùng hai nhóm chữ này để diễn tả hay suy niệm về Đức Mẹ. Trong gần 20 năm ở trong nước, kể cả những năm ở tiểu chủng viện Phaolô Xuân Lộc, tôi chưa một lần nghe các cha giảng về Đức Mẹ dưới hai danh hiệu nói trên. Thế nhưng tôi cho rằng đây là một kho tàng về Thánh Mẫu học mà chúng ta cần khai phá, nhất là cho những tín hữu Việt Nam trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay. Phúc Âm thánh Luca đã mô tả là khi Maria bước vào nhà mình, bà Elisabeth được đầy ơn Chúa Thánh Thần đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi... Phúc cho em là kẻ đã tin lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Luca 1:43,45). Maria được đầy ơn phúc không những vì là người được những đặc ân Thiên Chúa ban tặng. Bà là một người đã tín thác tuyệt đối. Bà là mẫu người lữ hành trong đức tin vượt trội hơn mọi người lữ hành khác. Abraham đã tin vào lời Chúa hứa khi ông bỏ tất cả để tiến về vùng đất hứa. Ông đã tin dù chẳng được thấy bằng chứng của lời hứa ấy. Abraham chẳng hề nhìn thấy con đàn cháu đống và cũng chẳng hề được bước chân vào vùng đất đầy sữa và mật ong. Ông tin khi không còn gì để tin và hy vọng khi không còn gì để hy vọng. Maria cũng thế. Bà cũng tin khi không còn gì để tin và hy vọng khi không còn gì để hy vọng. Ít ra ông Abraham khi phải chịu thử thách là đem con đi sát tế, Chúa đã nhận lòng tin và cứu con ông khỏi chết. Còn lòng tin của Maria thì bị thúc đẩy đến đường cùng. Bà phải chứng kiến con một mình bị sát tế trên bàn thờ thập giá. Đức tin của bà được chứng minh một cách tuyệt đối.
Maria trên Núi Sọ đã trở thành một người lữ hành trọn hảo trong đức tin. Bà cũng là môn đệ trọn hảo vì đã bước theo con đường chân thiện mỹ của Đức Kitô cho đến cùng. Còn Maria là ‘đầy tớ can trường của công lý’ như thế nào? Kinh Magnificat (Luca 1:46-55) cho chúng ta câu trả lời khi Maria ca ngợi Đấng đoái thương tới người nữ tì hèn mọn như Ngài đã luôn chúc phúc cho những kẻ khiêm nhường và đói nghèo nhưng luôn kính sợ Ngài. Những lời nói này đối với những người không hiểu lịch sử cứu độ thì có vẻ tổng quát và mơ hồ. Kẻ khiêm nhường và người nghèo đói theo truyền thống Kinh Thánh là những người trung tín với giao ước, bất chấp những thử thách. Họ không chỉ là những người mà nói theo tục ngữ Việt Nam là “ở hiền gặp lành”. Khi người Do Thái bị lưu đày hơn 60 năm ở Babylon, rất nhiều tín hữu mất niềm tin trong tâm trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Họ mất quê hương, mất đền thánh Jerusalem, mất hòm bia, mất chính quyền, mất quân đội và mất tất cả. Họ bỏ giao ước vì nghĩ rằng chính Thiên Chúa đã bỏ họ. Chỉ có một thiểu số giữ vững niềm tin và tiếp tục duy trì giao ước. Trong Kinh Thánh họ được gọi là ‘Anawim’ mà có thể gọi nôm na là ‘tàn dư còn sống sót’ [danh từ này rất phổ thông trong những năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975; chính quyền cộng sản dùng để miệt thị những ai dính líu tới chế độ cũ.] Chính từ những ‘tàn dư’ này hay hình ảnh ‘gốc chồi Jesse’ mà Thiên Chúa đã tái tạo một Do Thái mới sau khi họ trở về đất hứa. Họ là những người sống theo sự công chính của giao ước. Họ là những người trung tín với đường lối Thiên Chúa ngay cả khi lộ trình này tưởng như chỉ dẫn đến sự thất bại, tủi nhục và tuyệt vọng. Maria là nữ tì hèn mọn theo bước chân của những ‘tàn dư’ trung tín. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã viết là “Anawim không phải một giai cấp xã hội mà là một sự chọn lựa của kẻ công chính.” Họ chọn con đường công lý và sự thật mặc dù bị thiệt thòi và bắt bớ. Họ trung kiên theo giao ước dù bị kẻ có quyền bính ức hiếp. Như thế kẻ ‘tàn dư’ trung tín cũng là những ai sống tám mối phúc thật.
Maria đầy ơn phúc vì Ngài là người nghèo khó, người hiền lành, người có lòng thương xót, người khóc lóc và khao khát chân lý... Maria đầy ơn phúc vì Bà trung kiên bước theo con đường của người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa.
Đức Gioan Phaolô II kết luận là “Bài ngợi ca Magnificat đã nói lên vai trò của Mẹ trong cuộc chiến chống lại sự dữ và tà quyền.” Mẹ là người đồng hành và liên đới với tất cả những ai đứng về phía công lý và sự thật. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (Lc 1:51-53) Những lời này cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía ‘anawim’ của Ngài, tức là những người dù thiểu số và yếu hèn nhưng luôn kiên cường trong công lý và sự thật. Ngài sẽ chiến thắng trên những kẻ gian tà và phục hồi danh dự những ‘anawim’ của Ngài. Thiên Chúa đã thực hiện chiến thắng này nơi Đức Kitô, “phiến đá mà người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường”. Ngài đã thực hiện nơi Maria nữ tì hèn mọn cũng như tất cả những ‘anawim’ trung tín của Ngài. Quý vị thân mến, Đức Mẹ La Vang đã đi vào tâm hồn của người Công Giáo Việt Nam và Ngài cũng đã đi vào lòng dân tộc chúng ta. Dù không phải như là người Ba Lan đã gắn bó với thánh địa Minh Sơn như là linh hồn của cả dân tộc, người Việt Công Giáo ở khắp mọi nơi hướng về Mẹ La Vang như là người đồng hành trong thăng trầm của lịch sử và là đấng phù hộ trong cơn thử thách. Lòng sùng kính Đức Mẹ không chỉ đưa chúng ta tới những hành động thuần túy tôn giáo và lễ nghi như đi hành hương, dâng hoa, rước kiệu, cung nghinh v.v... Với bổn phận ‘nhập thể hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô hóa’ môi trường, lòng sùng kính Đức Mẹ cũng như lòng yêu mến Chúa thôi thúc chúng ta tìm cuộc sống sung mãn cho tha nhân. Chính vì thế, chúng ta không thể chỉ đến với Mẹ qua những hành động thuần túy tôn giáo mà không noi gương đấng là ‘anawim’ của Thiên Chúa. Maria là người lữ hành trong đức tin và là nữ tì trung tín của triều đại chính trực. Lòng sùng kính Mẹ thách thức chúng ta cũng phải làm đầy tớ và là chiến sĩ của công lý và sự thật trong cuộc chiến muôn thuở chống lại sự dữ và tà quyền. Vào ngày 15 tháng 8 tới đây, theo như tin tức của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thì sẽ có nghi lễ đặt viên đá đầu tiên để xây Vương Cung Thánh Đường tại La Vang.
Đây là một biến cố quan trọng thể hiện lòng sùng kính Mẹ và là một biểu hiện đặc thù của đức tin Công Giáo Việt Nam. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta không dừng lại ở một hình thức bên ngoài và nhất là tạo nên một biến cố để trang điểm cho chế độ. Nếu Kitô giáo mà mất vai trò ngôn sứ thì nó bị thuần hóa và trở thành công cụ của chế độ. Lúc đó, chúng ta không còn là tiếng kêu trong hoang địa nữa mà sẽ là tiếng chũm chọe kêu inh ỏi (1Cor 13:1); lúc đó chúng ta sẽ như muối không còn mặn nữa mà chỉ còn chờ ném ra ngoài đường cho người ta đạp lên nó (Mat 5:13). Nói tóm lại, lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang không thể tách lìa với bổn phận xây dựng một xã hội theo giá trị của Phúc Âm. Sứ mạng của Đức Kitô là đem sự sống sung mãn cho con người. Người Kitô hữu chúng ta không thể chỉ dừng lại trong những hành động tôn giáo mà không kiếm tìm sự sung mãn của đồng loại và nhất là của đồng bào. Như Mẹ Maria là nữ tì trung tín, xin cho mọi người Công Giáo Việt Nam trong và ngoài nước cũng trở nên đầy tớ của Tin Mừng, của công lý, của sự thật trong cuộc chiến chống lại sự dữ và tà quyền. Tôi xin phỏng theo lời của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II để kết thúc buổi chia sẻ hôm nay: Xin Mẹ La Vang toàn thắng nơi quê hương chúng ta. Xin Mẹ toàn thắng ngay cả qua những đau khổ và thất bại của chúng ta. Xin Mẹ cho chúng ta đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm của con người. Xin Mẹ đem lại chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Cùng Mẹ La Vang, chúng ta hãy tiến bước về tương lai tươi sáng cho dân tộc và cho đất nước. +Vinh sơn Nguyễn văn Long OFMConv, Giám mục Hiệu tòa Tala và Giám mục Phụ tá TGP Melbourne, Australia.
Phỏng vấn Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hoà bình về quan hệ Vatican-Việt Nam Trong hai ngày 27 và 28 tháng 2 vừa qua, Nhóm công tác hỗn hợp Vatican-Việt Nam đã mở cuộc họp lần thứ ba tại Hà Nội, sau nhiều tháng bị gián đoạn. Nếu như cuộc họp lần thứ hai của nhóm này vào tháng 6/2010 đã đạt một bước tiến đáng kể là Vatican bổ nhiệm một đại diện không thường trực của Giáo hoàng tại Việt Nam, Tổng giám mục Leopold Girelli, thì cuộc họp lần thứ ba trong tuần qua không có bước đột phá nào thật sự trong việc « củng cố và phát triển quan hệ song phương ». Bản thông cáo chung do Tòa Thánh công bố ngày 28/2 mô tả cuộc họp diễn ra trong không khí “thân mật, thẳng thắng và tôn trọng lẫn nhau”. Nhưng ngoài những câu chữ mang tính chất ngoại giao, chung chung, bản thông cáo chỉ ghi nhận có một kết quả cụ thể là hai bên đồng ý tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công việc của vị đại diện không thường trú của Giáo hoàng, Đức Tổng giám mục Girelli, để Ngài có thể “thi hành sứ mạng tốt đẹp hơn”.
Như vậy là quan hệ Vatican-Hà Nội có vẻ chưa có tiến triển gì rõ rệt theo hướng thiết lập bang giao, trong bối cảnh mà giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với chính quyền còn rất nhiều vấn đề, đặc biệt là liên quan đến các tranh chấp nhà đất. Gần đây nhất có thể đơn cử việc chính quyền muốn phá hủy hoàn toàn cơ sở Đại chủng viện Vĩnh Long để xây Trung tâm thanh thiếu niên mới, một hành động bị coi là xóa dấu vết tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo mà Nhà nước đã mượn, mặc dù Tòa Giám mục Vĩnh Long đã viết thư khẩn thiết kêu gọi chính quyền quan tâm đến nhu cầu tôn giáo.
Tại một số địa phương, các giám mục, linh mục vẫn thường bị cản trở khi làm công việc mục vụ, thậm chí bị hành hung, như trường hợp của cha Nguyễn Quang Hoa, cha phó của Giáo xứ Kon Hring, tỉnh Kontum. Ngày 23/2, sau khi cử hành một tang lễ tại làng Kon Hnong trở về, vị linh mục này đã bị ba thanh niên lạ mặt đánh đập dã man đến trọng thương, thậm chí bị dập phổi bên phải. Người dân địa phương nghĩ rằng ba thanh niên đó là do công an xã chỉ đạo hành hung cha Hòa. Không biết điều đó có đúng hay không, chỉ thấy là ba thủ phạm cho tới nay vẫn chưa bị chính quyền bắt giữ và xử lý theo pháp luật.
Trong bối cảnh như vậy, làm sao có thể đạt được công lý và hòa bình như mong muốn của các vị giám mục Việt Nam khi thành lập Uỷ ban Công lý và Hòa bình, mà chủ tịch đương nhiệm là Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh? Nhân cuộc họp giữa Vatican và Việt Nam trong tuần qua, sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn Đức Cha Nguyễn Thái Hợp:
RFI: Kính thưa Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, trước hết Đức Cha có nhận định như thế nào về kết quả cuộc họp vừa qua giữa Vatican với Việt Nam?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp : Bản thông cáo chung của cuộc họp có nhiều điểm tích cực đối với cả hai bên, về mặt ngôn ngữ cũng như về thành quả. Đây cũng là bước đi tiếp của một quá trình đã được đề ra trong cuộc đàm phán giữa hai bên và hy vọng đến cuộc họp thứ tư, được dự định tại Vatican, có thể sẽ có những điểm sáng sủa hơn. Cuộc họp này đặc biệt nhấn mạnh rằng sẽ tạo cơ hội để Đức Tổng Giám mục Girelli, đại diện không thường trú của Tòa Thánh có điều kiện để Ngài có thể hiện diện và hoạt động ở Việt Nam một cách hiệu quả hơn, vì trong thời gian qua, sự hiện diện của Ngài cũng chỉ là để đi viếng thăm và thăm dò tình hình, sự hiện diện này cũng còn rất giới hạn. Mỗi lần vào như vậy cũng chỉ là một tháng và cũng chỉ đưọc vào những lần nhất định thôi. Chúng tôi hy vọng là trong năm tới, với cuộc họp này, Ngài sẽ hiện diện và đi lại ở Việt Nam dễ dàng hơn.
RFI: Tuy sự hiện diện của Đức cha Girelli còn gìới hạn, nhưng những lần thăm viếng Việt Nam khá là thường xuyên của vị đại diện của Đức Giáo hoàng có mang lại những gì cụ thể cho quan hệ Vatican-Việt Nam?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp : Đối với Nhà nước thi những chuyến viếng thăm đó cũng giúp giảm bớt những nghi ngờ và lo sợ về sự hiện diện của Ngài. Nhưng thật sự là trong năm qua, sự hiện diện này, với con người của Đức Tổng giám mục Girelli, đã tạo ra những nối kết. Đặc biệt, Ngài không chỉ là đại diện không thường trú của Tòa thánh đối với Nhà nước, mà Ngài còn là đại diện của Đức Thánh Cha. Ngài đi gặp gỡ giáo dân như là một vị mục tử đại diện Đức Thánh Cha và Ngài đã đi 26 giáo phận. Rất nhiều nơi giáo dân đã hồ hởi đón tiếp Ngài như đón tiếp một vị đại diện của Đức Thánh Cha và biểu lộ tâm tình của người Việt Nam đối với Đức Thánh Cha, người kế vị Thánh Phêrô ở trần gian. Tôi thấy có nhiều điểm tích cực.
Chúng tôi, hàng giám mục, cũng đã rất nhiều lần đối thoại với Ngài. Lần này, Giáo tỉnh Hà Nội cũng đã gặp gỡ phái đoàn trước khi phái đoàn gặp gỡ và làm việc với Nhà nước. Cuộc gặp gỡ đó cũng đã có nhiều điểm tích cực.
RFI: Thưa Đức Cha, những chuyến đi của Đức Tổng Giám mục Girelli phải chăng cũng đã giúp Vatican hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của Giáo hội Việt Nam hiện nay, nhất là tình hình những giáo phận xa xôi hiện còn gặp rất nhiều khó khăn, để có một hình thức đối thoại hiệu quả hơn với Nhà nước Việt Nam, hầu giúp cải thiện tình hình của Giáo hội trong nước ?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp : Tôi thấy một số người vẫn nghĩ rằng Vatican không biết gi hoặc không rõ về tình hình Việt Nam. Tôi nghĩ rằng đó là một cái nhìn hơi phiến diện và vội vàng. Theo tôi biết qua đối thoại với một số nhân vật Vatican, Tòa Thánh có rất nhiều kênh để nắm tình hình và cũng nhận được thông tin từ khá nhiều nguồn.
Nhưng dĩ nhiên, sự hiện diện của Đức Tổng giám mục Girelli, với quan sát tại chỗ, gặp gỡ tại chổ với nhiều người, cũng bổ túc thông tin của Tòa Thánh về tình hình Việt Nam. Ngài cũng rất là nhạy bén. Ngài nhìn và hiểu rất rõ tình hình muôn màu muôn sắc ở Việt Nam, nhiều khi không phải là do chủ trương chung, mà là lệ thuộc rất nhiều ở địa phương. Mỗi địa phương có một sắc vẻ khác nhau.
RFI: Chuyện vừa xảy rại tại Kontum ( vụ hành hung dã man cha Nguyễn Quang Hoà), đây phải chăng là những sự cố lẻ tẻ, chứ không hẳn là một chính sách chung nhằm cản trở việc thực hiện tự do tôn giáo ở Việt Nam?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp : Có lẻ là cả hai, chứ không hoàn toàn là một. Đối thoại vẫn đang gay go giữa quan niệm hữu thần và vô thần. Hai quan điểm này luôn có những đối kháng đó. Ngoài ra, trên nguyên tắc, Nhà nước cũng tuyên bố tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn trọng các tôn giáo. Nhưng trên thực tế vẫn có những khó khăn và khó khăn đó nhiều hay ít nhiều khi cũng do tình hình địa phương đó nữa.
RFI: Với tư cách là chủ tịch Uỷ ban Công lý và Hòa bình, “chi nhánh” của Hội đồng Công lý và Hòa bình của Tòa Thánh, theo Đức Cha, việc thực hiện công lý và hòa bình ở Việt Nam còn những vấn đề gì đáng nêu lên?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp : Việc thực hiện công lý và hòa bình là ước mơ và con đường rất dài, khó khăn và diệu vợi ở khắp mọi nơi trên thế giới. Đặc biệt ở Việt Nam thì con đường đó dài và gồ ghề hơn. Chúng ta thấy còn rất nhiều vấn đề phải nêu lên. Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta chỉ mới đi những bước đầu tiên và mỗi ngày có thêm những thách đố khác nữa.
Vừa rồi chúng tôi vừa có một cuộc họp nội bộ để nhìn lại những hoạt động của chúng tôi và cũng có một sự chuyển đổi, bổ túc nhân sự nhiều hơn và rõ rệt hơn trong Uỷ ban. Chẳng hạn cha cựu Tổng thư ký của Uỷ ban thì sẽ chuyển sang một lĩnh vực khác, bởi vì ở Việt Nam thời hậu chiến, cũng như trong những năm vừa qua có rất nhiều vấn đề về con người, về tâm linh, sức khoẻ tâm thần, cho nên cha Nguyễn Ngọc Sơn sẽ chuyên tâm hơn về vấn đề tâm lý của giới trẻ. Chúng tôi sẽ có một Tổng thư ký mới, lo nhiều hơn cho vấn đề xã hội, công lý. RFI: Thưa Đức Cha, khi Uỷ ban Công lý và Hòa bình được thành lập, rất nhiều người trông chờ là Uỷ ban này sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn, cụ thể hơn trong những sự việc xảy ra thường xuyên, đặc biệt liên quan đến Gíáo hội Việt Nam, chẳng hạn những vụ tranh chấp đất đai giữa Giáo hội với các chính quyền đị phương. Vai trò của Uỷ ban phải là như thế nào, tức là làm sao có tiếng nói, nhưng không để bị xem như là can thiệp vào lĩnh vực chính trị dưới con mắt của chính quyền?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp : Một số người vẫn nhiều khi vô hình trung biến Uỷ ban thành một thứ uỷ ban đòi đất, hay một thứ bao công. Có lần tôi nói đùa như vậy. Có lẻ do hoàn cảnh của Việt Nam, do cái luật đất đai mà chúng tôi cũng đã nhiều lần lên tiếng rằng nó có quá nhiều vấn đề. Chính vì thế mà hơn 80% các vụ khiếu kiện ở Việt Nam là hậu quả của luật đất đai không phù hợp. Nó không phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, với kinh tế thị trường, đi ngược với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, vì không chấp nhận quyền tư hữu của người dân.
Đây cũng là cái luật đem lại thiệt thòi cho nông dân. Nông dân không thể sở hữu đất vĩnh viễn và cũng không có quyền chuyển nhượng lại cái quyền đất đai đó cho con cháu mình. Hơn nữa, luật đất đai cũng là nguồn tham nhũng rất lớn. Trên nguyên tắc, đất đai thuộc về nhân dân, nhưng do Nhà nước quản lý. Làm sao có thể giải thích điều đó? Phải chăng cái nguyên tắc đó trên thực tế không lý tưởng như người ta nói.
Chính vì vậy, từ khi xuất hiện Uỷ ban Công lý thì chúng tôi phải đối diện với vấn đề đó. Một số can thiệp lúc đầu cũng đã đi ngay vào vấn đề này. Nhưng một trong những nhiệm vụ lớn của chúng tôi là phổ biến giáo huấn về Xã hội Công giáo, một cách để loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay. Và để loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay thì phải luôn luôn đi vào mọi lĩnh vực: cuộc sống, xã hội, chính trị kinh tế, trong đó quyền của con người vẫn được đề cao. Chính vì vậy, hoạt động của Uỷ ban Công lý và Hòa bình rộng hơn là chuyện đòi đất.
Nhưng không thể là không can thiệp vào chuyện đòi đất, vì 80% khiếu kiện ở Việt Nam là liên quan đến đất đai và càng ngày khiếu kiện đó càng mang tính chất nổi cộm và nhạy cảm, như vụ của ông Vươn ở Hải Phòng. Chính chúng tôi cũng đã ký tên trong những bản kiến nghị đó.
Chính vì vậy có một số người đòi hỏi quá và biến chúng tôi thành như một cơ quan đòi đất và muốn chúng tôi can thiệp vào chuyện Nhà nước, mà theo quan điểm chung, thì Giáo hội tôn trọng vai trò của chính quyền dân sự. Giáo hội góp ý, chỉ lên tiếng. Chúng tôi chỉ dừng ở chỗ là đưa ra những định hướng, những nhận định, chứ không thể là thay thế hay can thiệp vào chính quyền dân sự, vì đó không phải là mục đích của chúng tôi.
RFI: Thưa Đức Cha, trong cuộc họp vừa qua giữa Vatican với Việt Nam thì hai bên cũng đã nhấn mạnh đến Giáo huấn của Giáo Hoàng Benendicto 16 về việc “ tín hữu Công giáo tốt cũng phải là một công dân tốt”. Đây cũng là lập luận mà chính quyền thường nêu ra để cho rằng người Công giáo cũng phải chấp hành luật lệ như những công dân khác, chứ không nên đòi hỏi những gì cao hơn về tự do tôn giáo. Ý kiến của Đức Cha như thế nào?
Giám mục Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi cũng đã có làm hai cuộc hội thảo nhỏ, nhưng vẫn chưa đi đến một kết luận có tính cách nhất thống về điểm đó. Có lẽ trong tương lai còn phải suy nghĩ rất nhiều. Một số cán bộ giải thích rằng trong đất nước hôm nay rất dễ dàng thực hiện việc “ một người Công giáo tốt có thể là một công dân tốt”.
Trên nguyên tắc là như vậy, nhưng trên thực tế thì rất khó. Một số anh em Công giáo, những người rất thành tâm thiện chí, thấy rằng trong đất nước, trong xã hội chúng ta, khi mà những giá trị của đạo đức, của luật pháp và giá trị của con người băng hoại như vậy, mà nhiều khi nhưng giá trị đó được một số cơ chế, một số quan chức coi như là chấp nhận, thì không chỉ là một người Công giáo tốt, mà ngay cả một công dân tốt cũng không thể thực hiện được trong một cái cơ chế như thế như vậy. Nói câuu đó một cách không có phân tích và không có nghiên cứu thì nhiều khi trở thành như là tuyên truyền. Chúng tôi thấy rằng sẽ cố gắng để làm sao mà thực hiện được điều đó.
Nhưng Đức Giáo Hoàng cũng yêu cầu rằng để thực hiện điều đó thì người Công giáo phải cộng tác một cách chân thành, nhưng đồng thời cũng thẳng thắng nói lên tiếng nói của lẽ phải, của công bằng. Hai điều đó phải luôn luôn đi đôi với nhau. Trong thực tại của cuộc sống, điều đó là điều rất khó, đòi hỏi phải có đối thoại, đòi hỏi phải có biến đổi rất nhiều. Tôi thấy đây là một thách đố đối với người Công giáo chúng tôi, cũng như đối với tất cả những người công dân Việt Nam trong thực tế hôm nay.
RFI : Xin cám ơn Đức Cha Phalô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Uỷ ban Công lý và Hòa bình. Thanh Phương (RFI)
The Suffering Church in Vietnam Bishop Paul Nguyen Thai Hop of Vinh on an Attack Against Catholics at Mass ROME, JULY 12, 2012 (Zenit.org).- After the incidents in the Catholic community of Con Cuong, Bishop Paul Nguyen Thai Hop of the diocese of Vinh and president of the Justice and Peace Commission of the Episcopal Conference of Vietnam, gave an interview in Paris to the Eglises d’Asie agency to comment on the incidents and other subjects. On July 1 what Asia News described as “a group of thugs linked to the Vietnam Patriotic Front,” attacked a group of Catholics gathered in a house of prayer in Con Cuong district - Nghe An province, Vinh Diocese, as they gathered to celebrate Mass on Sunday. It was just the latest in a series of attacks that started last November. The bishop spoke to the agency July 8. Q: What is the reason for the unleashing by the local authorities of such a wave of violence against a small group of believers who wished to celebrate the Eucharist? Bishop Nguyen Thai Hop: It’s true that all this seems inexplicable. One cannot understand the profound reasons of the authorities or the spirit that has guided their action. However, certain reasons can be put forth. In Vietnam there are districts called “heroic districts” [regarded as places of “Communist resistance”]. To preserve this status of “heroism,” they must follow three or four criteria. One of the criteria is the absence of religion and religious practices in the district’s territory. In fact, the district of Con Cuong, situated in the northeast of the province of Nghe An, forms part of this category of districts which have the obligation to perpetuate and preserve the tradition of heroism. One can think that this is one of the reasons for the brutality of the behavior of the authorities in this matter. One can also speak of a motivation of a political order, which would be plausible in today’s Vietnam. Christians have been present in the district of Con Cuong for a long time. Beginning in 1970, priests came to the region to celebrate Mass and to help the minorities. A priest goes regularly to the place on Sunday to celebrate Mass. We don’t understand why the authorities have intervened with such brutal behavior against the Catholic community of Con Cuong. Last year a mine exploded in front of the chapel. It was a criminal act. We protested but there was no reaction from the civil or police authorities. We want to live in dialogue with the authorities. We have no intention to use the matter of Con Cuong to impose our claims or slander the Party and the government. But the incident of July 1 is exceptional; it is intolerable for the majority of Catholics. The authorities have gone too far! As we say among ourselves, when certain limits are exceeded, we must react. Patience is a Catholic virtue, a human virtue. However, as everything that is human, it has its limits which cannot be exceeded with impunity. Such is the feeling of Catholics of our diocese. In a difficult situation what takes priority is solidarity with our Catholic brothers and sisters in our diocese. We don’t just want to protest, we also want to express this solidarity and ask for justice for the victims of this brutality. Q: Is the incident in Con Cuong completely isolated or are there in your diocese regions where incidents of the same sort could take place?
Bishop Nguyen Thai Hop: There are three provinces in my diocese: Nghe An, Ha Tinh and Quang Binh. Two years ago, in Quang Binh, in the village of Tam Toa, there were violent incidents such as those in Cong Cuong. The violence, I know not why, has now spread to the province of Nghe An. There the intolerable incidents of Con Cuong have taken place. Fortunately, in the other provinces, there are no similar conflicts for the time being. In the last Christmas celebrations, a top government official came from Hanoi to wish us a Happy Christmas from the government and to express his own good wishes. Q: You preside over the Justice and Peace Commission created by the Episcopal Conference of Vietnam a year and a half ago. Bishop Nguyen Thai Hop: Indeed, our Commission began its mission a short time ago. In the space of a year and a half, we haven’t done many things, because of our personal limitations but also because the socio-political situation did not allow us to do what we thought and wished to do. We regard the spread and implementation of the Social Doctrine of the Church as a way of evangelizing the world. Pope John Pal II said: “The Social Doctrine of the Church is not the third way between capitalism on one hand and Marxism on the other.” Pope Benedict XVI has added that the Church does not replace the State in its functions, but that she could make her contribution and dialogue with the government with the objective of serving men. We must evangelize and serve the men of our time. Pope Benedict XVI has asked the Vietnamese bishops to collaborate and dialogue frankly with the State. However, our evangelical vocation obliges us to privilege what is in keeping with truth, what is useful to the service of the country and in agreement with human rights. That is why we are partisans of dialogue, a dialogue that is very interesting but that is far from being simple and easy. Q: The latest publication of your Commission is a report entitled “Considerations on the General Situation of the Country.” You mention the positive evolution of the country over the past few years especially on the economic plane. However, you stress numerous negative aspects of present-day society. Bishop Nguyen Thai Hop: Let’s look at the history of Vietnam over the last 40 years. From 1975 to 1990, the situation was difficult, especially in the 80s. At that time, there were many difficulties, especially for Catholics. Then, in the period from 1990 to 2008-2009, the situation changed. The policy of doi moi (change) little by little gained ground and renewed the country in all areas. This is undeniable. However, in these last years there has been a clear slowing down of progress. The civil society and the political society have also experienced a slump. It’s not that I’m a pessimist, but that the situation is bad. The socio-political situation is worrying. I’m not the only one who thinks this. That is why, for this report our Commission wished to make the voice of criticism heard, but a constructive criticism, desirous of seeing the country undertake the path of real development. Economic development must be linked to social and human development. Q: Today in Vietnam the battle for safeguarding Vietnamese sovereignty is supported by many people including the Catholics. You yourself have spoken about this several times. Do you think that this battle is part of your mission as a pastor? Bishop Nguyen Thai Hop: In the pastoral Constitution on the Church in the world of its time, Vatican Council II declared: “The joys and hopes, the sadnesses and anxieties of men of this time, of the poor and of all those who suffer, are also the joys and hopes, the sadnesses and anxieties of the disciples of Christ, and there is nothing really human that does not find an echo in his heart.” We are at the same time disciples of Christ and children of a nation; we are Vietnamese and Christians. Vietnam is the nation that God has given us to be really human, to be in it a citizen and a Christian. Hence, with the other citizens, Catholics, non-Catholics and also Marxists, we want to manifest our concern regarding the very dangerous situation for the country’s destiny.
Q: The issue of religious liberty is in the report of the Justice and Peace Commission on the general situation of the country. Bishop Nguyen Thai Hop: We must acknowledge that the government has done much, both in favor of the Church as well as in favor of religion in general. If a comparison is made between the situation of the Church in Vietnam shortly after 1975 and the one that exists today, we can see that there has been much progress. Vietnam has entered the World Trade Organization, it has become a member of numerous international institutions, and is now obliged to implement international conventions on human rights. What is left is to arrive at the normalization of the situation in regard to religion. Currently a new decree on religion is being prepared. However, if the situation were normal, there would be no need for this decree. It is necessary to treat Catholics, non-Catholics, Buddhists and all others as citizens! We already have a civil code and everybody must be treated according to the law. I don’t say that this can be done all at once. But we must tend to this kind of situation. If we succeed, then we will be able to say that there is real religious liberty. [Translation by ZENIT] ---------
Linh Mục An Phong Trần Đức Phương, thuộc Tổng Giáo Phận Seattle tiểu bang Washington Hoa Kỳ, chuyển lời tâm tình và hiệp thông cầu nguyện cho đồng bào ở Thái Hà cũng như Viêt Nam. (quý vị bấm nghe âm thanh) http://audio.freevietnews.com/20081124_lmtranducphuong.m3u Kiên cường giữ vững niềm tin và can đảm Linh Mục An Phong Trần Đức Phương Chúng tôi xin hiệp một lòng một chí với mọi người ở Viêt Nam hay tại hải ngoại, gởi lời kính thăm quý Cha quý Tu Sĩ nam nữ, và toàn thể quý vị đang sống tại Thái Hà. Từ ngày biến cố đau thương ở Thái Hà xảy ra, những người Viêt Nam có tâm hồn yêu chuộng hòa bình và công lý, đều hướng về Thái Hà để chia xẻ những đau khổ bất công, đe dọa, đàn áp, quý vị phải gánh chịu, để bảo vệ niềm tin, tự do tôn giáo và công bằng xã hội. Chúng tôi từ ở hải ngoại xa xôi, nhưng lòng trí luôn hướng về quê hương Viêt Nam và thông cảm bao nhiêu những bóc lột bất công tàn ác ở khắp ba miền Đất Nước Viêt Nam, vì bị chiếm đoạt đất đai, tài sản, bị bóp nghẹt tiếng nói, bị đe đọa, bị tù đày...chỉ vì muốn bảo vệ sự công bằng xã hội, nhân quyền và tự do. Nhất là tự do tôn giáo. Chúng tôi đã, đang, và sẽ làm gì có thể được, để toàn thể thế giới nhất là các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế biết đến những hoàn cảnh đau khổ mà quý vị đang phải gánh chịu. Để gây tiếng vang và kêu gọi nhà cầm quyền tại Viêt Nam phải chấm dứt những đàn áp dã man, những chiếm đoạt tài sản của dân một cách bất công. Đặc biệt là Thái Hà. Chúng tôi cũng hiệp với quý vị và bao nhiêu những người trên thế giới, cầu xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các Thánh Tử Đạo Viêt Nam thương mến hoàn cảnh đau khổ quý vị đang phải chịu, và nâng đỡ quý vị luôn kiên cường giữ vững niềm tin và can đảm trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền, cho công bằng xã hội tại Viêt Nam, đăc biệt tại Thái Hà. Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, nâng đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin cám ơn quý vị, và gởi lời chào toàn thể quý vị. Tổng Giáo Phận Seattle, Washington Hoa Kỳ
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI VỚI VIỆT NAM 2 Hà Minh Thảo2/20/2013 VietCatholic News
(Tiếp theo)
III. NHÓM LÀM VIỆC CHUNG TÒA THÁNH VÀ VIỆT NAM.
Sau khi chiếm Sàigòn ngày 30.04.1975, ngày 05.06.1975, chánh quyền cộng sản yêu cầu Đức cha Henri Lemaître, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt-Nam, rời nhiệm sở và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh Vatican.
Sau khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong Hiển Thánh cho 117 Á Thánh Tử Đạo Việt Nam, mùa hè 1989, Đức Hồng y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình và Hội đồng Giáo hoàng ‘Cor Unum’ (Đồng Tâm, cơ quan Bác ái Tòa Thánh, đã thăm viếng mục vụ Việt Nam. Sau đó phái đoàn Toà Thánh đã có chuyến thăm ‘chính thức’ đầu tiên vào năm 1990, và chuyến thăm thứ 14 và cuồi cùng đã diễn ra từ ngày 09 đến 15.06.2008.
Trong các chuyến viếng thăm thế này, phái đoàn Toà Thánh thường đề cử danh sách các ứng viên giám mục cho các giáo phận còn trống toà. Theo thoả thuận giữa Vatican và Việt Nam, ứng viên được Toà Thánh chỉ được bổ nhiệm nếu chính phủ chấp thuận. Khi ứng viên đó bị từ chối, thì một người khác sẽ được đề cử. Trong thực tế, Đức Giáo hoàng bổ nhiệm tân giám mục và chính phủ Việt Nam công bố "nihil obstat". Các nhân viên kiểm duyệt của Giáo hội thường dùng cụm từ Latin này, có nghĩa là ‘không gì ngăn trở’, để cho phép phát hành sách.
A.- Cuộc họp đầu tiên Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam-Vatican (Vietnam-Holy See Joint Working Group, tiếng Anh và Groupe de travail entre le Vietnam et le Saint-Siège, tiếng Pháp) về quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia đã kết thúc, đúng như chương trình dự liệu, sau hai phiên làm việc: chiều 16 và sáng 17.02-2009.
Ngày 18-02-2009, Thông tấn xã Việt Nam đưa tin (tóm tắt) : Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam-Vatican đã trao đổi một cách sâu rộng và tổng thể các vấn đề trong quan hệ giữa hai bên trong đó có các vấn đề liên quan đến Giáo hội Công giáo Việt Nam theo chiều hướng phát triển đáng khích lệ, mối quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh từ năm 1990 tới nay, một bước tiến mới quan trọng. Hai bên nhất trí sẽ tiến hành phiên họp thứ hai vào thời gian và địa điểm sẽ được xác định sau. Cuộc họp đã diễn ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau.
Trước đó, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Thế Doanh cũng cho biết quan điểm của Ban Tôn giáo về những yếu tố quan trọng nhất góp phần thúc đẩy quan hệ hai bên: « Trước hết là sự tôn trọng lẫn nhau, trong đó có việc tôn trọng độc lập, chủ quyền, lịch sử, văn hóa, truyền thống dân tộc Việt Nam, pháp luật Việt Nam, vừa cùng chia sẻ và tôn trọng sự khác biệt, vừa cùng thể hiện tinh thần thiện chí để tìm ra những điểm đồng thuận mới. Thứ hai, muốn có kết quả trong quan hệ thì phải bảo đảm sự hài hòa về lợi ích mỗi bên. Thứ ba, cả hai bên đều phải quyết tâm cùng nhau hướng tới sự phát triển một cách trong sáng và lành mạnh, trong đó việc duy trì và khẳng định đường hướng đồng hành cùng dân tộc của Giáo hội Công giáo Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không để bị tác động bởi những ý nghĩ và hành vi tiêu cực từ bất cứ phía thứ ba nào ». Bàn về cuộc thảo luận, Đức ông Parolin, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa Thánh, Trưởng đoàn Vatican, cho biết hai bên đã có những cuộc thảo luận tốt đẹp và rất hài lòng về điều này. Nhưng Đức ông không cho biết rõ tiến trình thảo luận sẽ còn kéo dài bao lâu, chi nói rằng kết quả sẽ là việc thiết lập quan hệ ngoại giao, điều cả hai bên cùng mong ước ».
Trong bản tin ngày 19-02-2009, trang tin điện tử Voanews.com (Tiếng nói Mỹ quốc cho biết : « Đức ông Parolin hy vọng Đức Giáo Hoàng có thể đến thăm Việt Nam năm nay… ». Tuy nhiên, Đức ông nói thêm là khó vì điều này phụ thuộc vào nhiều việc cần phải thảo luận và suy nghĩ. Phía Việt Nam, một nhân viên ngoại giao nói là Hà nội chưa nhận được một đề nghị chính thức cho một chuyến viếng thăm như thế cả. [Đến giờ phút này, chắc chắn chuyến viếng thăm này không có khả năng thực hiện].
B.- Khóa họp thứ 2 Nhóm Làm Việc chung Việt Nam-Tòa Thánh đã diễn ra tại Vatican từ ngày 23 đến 24.06.2010, dưới sự chủ tọa của Đức ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao, trưởng đoàn Tòa Thánh, và ông Nguyễn Quốc Cường, Thứ trưởng ngoại giao, trưởng đoàn Việt Nam. Việt Nam nhắc lại đường hướng trước sau như một của chính sách Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo và tín ngưỡng cũng như các qui định pháp lý bảo đảm việc thực thi tự do đó. Phái đoàn Tòa Thánh đã ghi nhận giải thích đó và yêu cầu đảm bảo thêm những điều kiện để Giáo hội tham gia hữu hiệu hơn vào sự phát triển đất nước, nhất là trong lãnh vực tinh thần, giáo dục, y tế, xã hội và từ thiện. Qua các giáo huấn, Giáo hội mời gọi các tín hữu trở thành những công dân tốt và dấn thân cho Công ích.
Hai phái đoàn đã ghi nhận những phát triển khả quan trong các lãnh vực của đời sống Công giáo tại Việt Nam, đặc biệt về Năm Thánh. Ngoài ra, cả hai nhắc đến bài diễn văn của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 trong dịp các Giám Mục Việt Nam về Roma viếng mộ các Thánh Tông Đồ năm 2009 và đồng ý rằng các giáo huấn này của Đức Thánh Cha sẽ được dùng làm hướng đi cho Giáo hội Công giáo tại Việt Nam trong những năm tới đây. Về quan hệ song phương, đôi bên đánh giá cao những phát triển tích cực từ sau Khóa họp thứ I và cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết hồi tháng 12.2009. Để đào sâu những quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam cũng như giữa Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo địa phương, như một bước đầu, hai bên thỏa thuận về việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm một vị Đại Diện không thường trú Tòa Thánh tại Việt Nam. Ừ Sau đó, Linh mục Federico Lombardi sj, Phát ngôn viên Tòa Thánh đã giải thích rằng, chức vị mới này không hình thành nên các quan hệ ngoại giao toàn diện và đầy đủ giữa hai bên Toà Thánh Vatican và Việt Nam, vì chức vị mới này không phải là một vị Sứ Thần hay vị Khâm sứ Thường trực tại Việt Nam.
C.- Đức Thánh Cha bổ nhiệm Đại diện không thường trú đầu tiên tại Việt Nam. Đức Thánh Cha tuyên bố trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh ngày 10.01.2011: « Tôi hài lòng ghi nhận rằng chính quyền Việt Nam đã chấp nhận để tôi chỉ định một Đại Diện, qua các cuộc viếng thăm cộng đồng Công giáo quý mến tại nước này, vị ấy sẽ bày tỏ sự quan tâm ân cần của Người Kế Vị Thánh Phêrô ».
Ngày 13.01.2011, Đức Thánh Cha cử Đức cha Leopoldo Girelli, sinh ngày 13.03.1953 tại Predore, Giáo phận Bergamo (Ý), thụ phong linh mục năm 1978, được tấn phong Đức cha ngày 17.06.2006 bởi Đức Hồng y Angelo Sodano, Tổng Giám mục hiệu tòa Capreae, Sứ thần Tòa Thánh tại Indonesia, kiêm nhiệm Sứ thần tại Singapore, Khâm sứ tại Malaysia và Brunei vào sứ nhiệm Đại Diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam. Ngày 18.06.2011, Đức cha được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Từ ngày 16.01.2013, Đức cha Leopoldo Girelli chỉ còn nhiệm vụ Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Đại Diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam.
D.- Nhóm làm việc chung Tòa Thánh và Việt Nam họp lần thứ 3. Ngày 24.02.2012, Linh mục Federico Lombardi sj., Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, loan báo: « Chiếu quyết định trong cuối cuộc gặp gỡ thứ hai của Nhóm Làm Việc này tại Vatican trong hai ngày 23 và 24.06.2010, cuộc gặp gỡ thứ 3 của Nhóm sẽ diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 27 và 28.02.2012. Sau một số cuộc viếng thăm do vị Đại diện không thường trực của Tòa Thánh tại Việt Nam, cuộc họp tới đây sẽ giúp đào sâu và phát triển các quan hệ song phương ».
Ngày 28.02.2012, tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi đã công bố Thông cáo chung về cuộc gặp gỡ này của Nhóm Làm Việc chung Việt Nam và Tòa Thánh tại Hà nội. Trưởng phái đoàn Tòa Thánh là Đức ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao, với sự hiện diện của Đức cha Leopoldo Girelli, Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam, và hai Đức ông Nguyễn văn Phương (Bộ Truyền giáo), Cao minh Dung (Bộ ngoại giao) tháp tùng. Các phiên họp được đặt dưới sự đồng chủ tọa của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi thanh Sơn và Đức ông Ettore Balestrero. Hai bên đã cứu xét những vấn đề quốc tế, trao đổi tin tức về tình trạng liên hệ, phân tích những tiến bộ đã thực hiện trong quan hệ Việt Nam và Tòa Thánh từ lần họp trước và đã thảo luận về những vấn đề liên hệ tới Giáo hội Công giáo tại Việt Nam.
Phái đoàn Việt Nam nhấn mạnh rằng Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện và không ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng và tôn giáo của người dân; khuyến khích Giáo hội Công giáo tại Việt Nam tham gia tích cực và thiết thực vào công cuộc phát triển đất nước, kinh tế và xã hội hiện nay. Về phần mình, Phái đoàn Tòa Thánh ghi nhận những quan điểm đó, nhưng có đồng ý như vậy hay không là chuyện khác. Nhưng Phái đoàn Tòa Thánh bày tỏ sự trân trọng mối quan tâm của chính quyền đối với hoạt động của Giáo hội Công giáo, đặc biệt trong việc cử hành Năm Thánh 2010, và trong các cuộc viếng thăm mục vụ của vị Đại diện không thường trú, Tổng giám mục Leopoldo Girelli.
Đôi bên đã đồng ý tạo điều kiện dễ dàng cho công việc của Đức cha Girelli, để Ngài có thể thi hành sứ mạng tốt đẹp hơn và đã nhắc đến giáo huấn của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về việc sống Tin Mừng giữa lòng Đất Nước, và những nhận xét của Ngài về việc là tín hữu Công giáo tốt và là một công dân tốt, nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục có sự cộng tác giữa Giáo hội Công giáo và chính quyền dân sự, để thực thi một cách cụ thể và thực tế, những giáo huấn ấy trong tất cả mọi hoạt động. Ngoài ra, hai bên đã đồng ý về thẩm định theo đó các quan hệ giữa hai nước đã tiến triển tích cực dựa trên căn bản thiện chí và đối thoại xây dựng, cũng như tôn trọng các nguyên tắc trong quan hệ và thỏa thuận sẽ gặp lại nhau tại Vatican cho vòng 4 mà thời điểm sẽ được thiết định qua đường ngoại giao.
Một điều rất quan trọng trong thông cáo là: « Cuộc họp đã diễn ra trong bầu khí thân mật, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau ». Khi ngôn ngữ ngoại giao dùng từ ngữ ‘thẳng thắn’ có nghĩa là có những bất đồng lớn, và dĩ nhiên là ‘tôn trọng lẫn nhau’ cũng có nghĩa là ‘bên anh nói anh nghe, bên tôi nói tôi nghe’! Như vậy, cũng có nghĩa là những vấn đề nhậy cảm như tự do tôn giáo, đất đai và cơ sở của Giáo hội.
IV. ĐỨC THÁNH CHA TIẾP CÁC GIÁM MỤC VIỆT NAM.
Phái đoàn 3 Đức Tổng Giám mục và 26 Đức Giám mục Việt Nam đã đến Rôma để thực hành cuộc ‘Ad limina’ khởi sự từ ngày 22.06.2009. Mỗi vị được Đức Thánh Cha tiếp riêng trong vòng 15 phút và tiếp chung lúc 12 giờ ngày 27.06.2009, tại Sảnh đường Công Nghị, trong dinh Tông Tòa.
Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đọc lời chào mừng bằng tiếng Pháp, tựa đề ‘Hành trình đức Tin trong đức Mến và đức Cậy’ : « … khi tưởng nhớ Tổ tiên chúng con trong đức Tin, các vị mục tử tận tụy, cách riêng những chứng nhân tử vì đạo trung kiên mà máu đào đổ ra đã làm gia tăng con số các tín hữu và khơi dậy biết bao ơn gọi linh mục và tu sĩ cho đến tận hôm nay. Chính việc tưởng nhớ đó mời gọi chúng con sống ân huệ đức Tin một cách sâu sắc và tiếp nối sự làm chứng của các Ngài cho Phúc Âm giữa lòng thế giới và giữa lòng một xã hội đầy ắp những hứa hẹn cũng như những thách đố. » Rồi Đức cha nói đến một giấc mơ: Đức Thánh Cha đến La Vang. Các Giám mục vỗ tay tán đồng.
Trong đáp từ, Đức Thánh Cha nói Ngài vui mừng được gặp các Giám mục Việt Nam vì biết các tín hữu Việt Nam ‘liên kết sâu xa với Hội Thánh và Đức Giáo Hoàng bằng lòng trung thành và lòng yêu mến’. Vì đang ở trong năm Linh mục, Ngài muốn cảm ơn các linh mục và tu sĩ đã dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa và nỗ lực hoạt động để thánh hóa Dân Chúa và lưu ý các Giám mục ‘lưu tâm đến việc đào tạo linh mục cho tốt, bằng nâng cao đời sống đức Tin cũng như trình độ văn hóa, để có thể phục vụ đắc lực Hội Thánh và xã hội’.
Trong quan hệ giữa Giáo hội và xã hội, Đức Thánh Cha nói: « Hội thánh mời gọi mọi con cái chân thành dấn thân xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Hội thánh không hề có ý chiếm chỗ của các nhà chức trách, chỉ muốn tham dự đúng mức vào đời sống đất nước nhằm phục vụ nhân dân, trong tinh thần đối thoại và cộng tác chân thành. Hội thánh không bao giờ được miễn chuẩn thi hành đức bác ái… đồng thời không bao giờ có một hoàn cảnh nào người ta không cần đến đức bác ái của từng Kitô hữu, vì vượt trên công bằng, con người cần và luôn luôn cần đến yêu mến. Cuối cùng, Đức Thánh Cha gửi lời chào nồng nhiệt đến các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo lý viên, toàn thể giáo dân, đặc biệt là những người nghèo và những người đau khổ phần xác hay tinh thần. Ngài khích lệ mọi người trung thành với Đức Tin, quảng đại làm chứng cho Chúa trong những hoàn cảnh nhiều khi khó khăn, luôn kiên cường vì điều này đã được Tông Huấn Ecclesia in Asia coi là nét đặc trưng.
Ngày 13.02.2013, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám mục Hà nội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã thay mặt Giáo hội Công giáo Việt Nam gởi thư bằng tiếng Pháp bày tỏ tâm tình kính mến và hiệp thông đến Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.
Trong 8 năm qua, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã bổ nhiệm 16 Giám mục Việt Nam cho 14 Giáo phận tại Quê Hương cùng 2 Đức Giám mục phụ tá các Tổng Giáo phận Hải ngoại (Vinh sơn Nguyễn Mạnh Hiếu, Toronto, Canada và Vinh sơn Nguyễn Văn Long, Melbourne, Úc đại lợi).
V. ĐỨC THÁNH CHA VỚI ĐỨC HỒNG Y P.X. NGUYỄN VĂN THUẬN.
Ngày 30.11.2007, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã công bố Thông điệp ‘Niềm Hy vọng Kitô giáo’ (Spe Salvi). Trong đó, Ngài nhắc đến hai người Việt Nam như chứng nhân hy vọng : Đức Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, tử đạo năm 1857.
- Kinh nghiệm của Đức Hồng y Thuận về sự cầu nguyện trong tù và tình trạng cô độc. « Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô liêu hoàn toàn...; nếu tôi cầu nguyện thì tôi không bao giờ hoàn toàn đơn côi. Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quí giá: Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng. Trong vòng 13 năm tù đầy, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen cô đơn. » (số 32) « … lời cầu ấy phải luôn được hướng dẫn và soi sáng bởi những kinh nguyện quý giá của Giáo Hội và của các thánh, và bởi lời cầu phụng vụ, trong đó Chúa dạy đi dạy lại chúng ta làm thế nào cầu nguyện cho xứng hợp. Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận, trong quyển sách của ngài về luyện đàng thiêng liêng, nói với chúng ta rằng trong cuộc đời ngài, có những thời gian dài ngài đã không thể cầu nguyện được và ngài đã phải bám lấy những kinh nguyện của Giáo Hội như kinh Lậy Cha, kinh Kính Mừng và các kinh nguyện phụng vụ. Cầu nguyện phải luôn luôn có sự pha trộn giữa lời cầu nguyện chung và cá nhân. Đây là cách thế chúng ta có thể thân thưa với Chúa và Chúa nói với chúng ta. » (số 34)
- Kinh nghiệm vui tươi của Thánh Tịnh giữa những cực hình của cuộc bách hại. « Không phải là bỏ ra ngoài hoặc trốn tránh khỏi sự khổ đau là chúng ta được chữa lành, nhưng chính là do khả năng của chúng ta chấp nhận nó, trưởng thành với nó và tìm ra ý nghĩa qua việc kết hợp với Chúa Kitô, Đấng đã chịu thương khó với tình yêu vô biên. Trong ý nghĩa này, tôi muốn trích một đoạn từ lá thư của vị tử đạo Việt Nam, Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, ( 1857) trong đó ngài diễn đạt sự biến hóa đau khổ qua quyền năng hy vọng, phát sinh từ đức tin như sau: ‘Tôi, Phaolô, bị gông cùm vì danh Chúa Kitô, ước mong kể lại cho các con những thử thách mà cha chịu hằng ngày, để nhờ đó các con có thể bùng lên ngọn lửa yêu mến Chúa và hợp với cha ngợi khen Chúa, vì lượng từ bi Chúa hải hà muôn đời (Tv 136 [135])’. » (số 37)
Ngày 16.09.2007, năm năm sau ngày Đức Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận về Nhà Cha, tại Nhà thờ Đức Mẹ Cầu Thang (Santa Maria della Scala, dành cho Đức Hồng y tại Rôma), Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đã tổ chức Thánh Lễ đồng tế do Đức Hồng y Renato Raffael Martino, Chủ tịch Hội đồng, chủ tế để tưởng nhớ một chứng nhân hòa bình và hy vọng, đã chịu giam cầm 13 năm tại quê hương Người và công bố mở dự án phong Chân phước.
Nhân dịp này, một buổi triều yết đã diễn ra ngày thứ hai 17.09.2007 tại Dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo. Trong diễn văn, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói : « Tôi vui mừng, nhân cơ hội này để, một lần nữa, nêu lên chứng tá Đức Tin sáng ngời mà vị Mục Tử anh dũng này đã để lại cho chúng ta. Giám mục Phanxicô Xavie đã được vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 đáng kính của tôi bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình. Nguời đã hoàn thành ‘Toát Yếu Giáo Huấn xã hội của Hội Thánh’. Làm sao quên được những nét nổi bật về sự đơn sơ và thân thiện ngay của Người? Chúng ta tưởng nhớ Ngài với sự thán phục lớn lao, trong khi chúng ta nghĩ lại trong tâm trí những dự phóng lớn lao và tràn đầy Hy vọng, đã làm cho Ngài luôn sống động và Ngài tìm cách thế để dễ dàng loan truyền ra và thuyết phục nhiều người; sự dấn thân đầy nhiệt huyết Ngài để quảng bá Học thuyết xã hội Hội thánh giữa những người nghèo trên thế giới, và lòng hăng say truyền bá Phúc âm trong lục đia Á châu của Ngài, khả năng Ngài điều hợp các hoạt động bác ái và thăng tiến con người mà Ngài làm tăng thêm và nâng đỡ tại những nơi nặng nề nhất trên thế giới.
Đức Hồng y Văn Thuận là một con người của Hy vọng, Ngài sống bằng Hy vọng, Ngài phổ biến Hy vọng cho tất cả những ai Ngài gặp. Chính nhờ năng lực thiêng liêng này mà Ngài đã chống lại được tất cả những khó khăn thể lý và luân lý. Hy vọng đã nâng đỡ Ngài khi là Giám mục bị cô lập trong vòng 13 năm trời, xa cách khỏi cộng đoàn Giáo phận Ngài. Hy vọng giúp đỡ Ngài biết nhìn ra qua cái vô lý của các biến cố xẩy đến cho Ngài - không bao giờ được xét xử trong những năm tù ngục - một kế đồ của sự quan phòng của Thiên Chúa.
Tin về bệnh ung thư Ngài, căn bệnh đưa Ngài tới cái chết, tin này đã đến với Ngài cùng lúc với việc Đức Gioan Phaolô II đặt Ngài làm Hồng y, vị Giáo Hoàng này bày tỏ với Đức Hồng y một sự trân trọng và tình cảm thật lớn lao. Đức Hồng y Văn Thuận thường nhắc lại rằng Kitô hữu là một con người của từng giờ, của lúc này, của giây phút hiện tại, cần được đón nhận và sống với tình yêu Chúa Kitô. Trong khả năng sống giây phút hiên tại này chiếu tỏa ra cái sâu thẳm của việc từ bỏ trong bàn tay Thiên Chúa và tính đơn sơ như trong Phúc âm dạy mà chúng ta tất cả đều kính phục Ngài. Và làm sao có thể xảy ra điều này - người ta tự hỏi - một người đặt tin tưởng vào Chúa Cha trên trời mà lại từ chối để mình được ôm ấp vào cánh tay của Chúa Cha sao?
Và Đức Thánh Cha kết luận rằng: « Anh chị em thân mến, tôi vui mừng sâu xa đón nhận tin về việc khởi sự án phong chân phước cho vị Ngôn Sứ đặc biệt này của niềm hy vọng Kitô, và trong khi chúng ta phó thác cho Chúa linh hồn ưu tuyển Người, chúng ta hãy cầu nguyện để tấm gương Đức cố Hồng y là giáo huấn hữu hiệu cho chúng ta. Với lời cầu chúc đó, tôi thành tâm ban phép lành cho tất cả anh chị em. »
Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma
VATICAN. 200 ngàn tín hữu cùng với đại diện chính quyền 132 quốc gia cũng như nhiều phái đoàn các Giáo Hội Kitô và liên tôn đã tham dự thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ĐTC Phanxicô từ lúc 9.30 sáng ngày 19-3-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô. Lúc 8 giờ 45, ĐTC Phanxicô đã đi trên chiếc xe díp màu trắng, mui trần, không có kiếng chắn đạn, tiến ra Quảng trường thánh Phêrô. Ngài tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, reo vui, vẫy cờ quốc gia của họ. Có một lúc ĐTC truyền dừng xe lại, ngài xuống xe ôm hôn một người khuyết tật, và những lúc khác, ngài ôm hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài. Trước thánh lễ, lúc 9 giờ 20 phút, ĐTC đã xuống hầm dưới bàn thờ chính của Đền Thờ Thánh Phêrô và đến trước mộ của Thánh Tông Đồ trưởng. Tại đây, cùng với 10 thủ lãnh các Giáo hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương, trong đó có 4 vị Thượng Phụ Giáo Chủ, 4 vị Tổng Giám Mục trưởng, trong số này 4 vị là Hồng Y, ngài cầu nguyện và xông hương trên mộ Thánh Nhân. Từ mộ thánh Phêrô, hai thầy Phó tế đã lấy hai chiếc đĩa: một đựng dây Pallium và một đựng nhẫn Ngư Phủ của ĐTC, để tháp tùng ngài trong đoàn rước tiến ra lễ đài trên thềm đền thờ thánh Phêrô.
Thành phần tham dự
Đi trước ĐTC trong đoàn rước là 180 vị đồng tế, hầu hết là các Hồng Y, trong phẩm phục màu trắng vàng, trong khi ca đoàn Sistina của Tòa Thánh hát kinh cầu các Thánh xin các vị phù giúp Đức tân Giáo Hoàng.
Trong đoàn đồng tế, đặc biệt cũng có 2 LM đó là Cha José Rodriguez Carballo người Mêhicô, và Cha Aldolfo Nicolás Pachón, người Tây Ban Nha, Bề trên Tổng quyền dòng Tên. Hai vị được mời đồng tế trong tư cách là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam.
Việc giúp lễ do 15 tu sĩ Phanxicô thuộc Đền thánh La Verna ở miền trung Italia, nơi thánh Phanxicô Assisi nhận 5 dấu thánh, đảm trách với sự phụ giúp của 4 thầy thuộc dòng Phanxicô Viện Tu ở Roma. Phần thánh ca trong buổi lễ do Ca đoàn Sistina của Tòa Thánh gồm 65 ca viên do Nhạc trưởng là Đức ông Massimo Palombella điều khiển, cộng thêm với Ca đoàn tổng hợp gồm 80 ca viên.
Bên trái bàn thờ là 200 GM và 33 phái đoàn của các Giáo Hội Kitô anh em, đứng đầu là Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople bên Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng được coi là vị thủ lãnh danh dự chung của toàn Chính Thống giáo. Các vị lãnh đạo các Giáo Hội Tin Lành, Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, và cả thầy Alois Loeser, tu viện trưởng tu viện Đại kết Taizé bên Pháp.
Cũng ở bên trái nhưng xuống phía trước bàn thờ là phái đoàn của các tôn giáo bạn, từ Do thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, Jaina và Ấn Giáo. Sau đó là 1.200 LM và chủng sinh.
Bên hông phải bàn thờ là chỗ dành cho 132 phái đoàn chính thức của các nước, đứng đầu là Tổng thống Cộng hòa Italia, ông Giorgio Napolitano, Bà Tổng thống Cristina Fernández de Kirchner của Argentina, 6 vị vua, 32 vị Tổng thống, 3 thái tử, phần còn lại là các thủ tướng chính phủ, phu nhân Tổng thống, hoặc Phó tổng thống, trong đó có Ông Joseph Biden của Hoa Kỳ.
Chính quyền thành Roma đã bố trí một số màn hình khổng lồ tại khu vực quảng trường Thánh Phêrô và đường Hòa Giải để dân chúng có thể tham dự thánh lễ.
ĐTC tiến ra lễ đài trước sự vỗ tay vang dội của mọi người. Nhiều lá cờ quốc gia cũng được các tín hữu phất lên, dưới bầu trời đẹp.
Nghi thức nhận Pallium và nhẫn Ngư Phủ
Nghi thức khai mạc sứ vụ Phêrô, theo qui định của ĐTC Biển Đức 16, nay được cử hành liền trước thánh lễ, vì không phải là bí tích. Nghi thức này gồm phần trao dây Pallium Giáo Hoàng và trao nhẫn Ngư Phủ.
Dây Pallium được trao cho ĐTC là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình Thánh Giá màu đỏ, khi được đeo vào cổ, có một phần dài ở phía trước ngực và một phần dài ở sau lưng. Đây là biểu hiệu cổ kính nhất của Giám Mục. Simeon thành Tessalonica viết: ”Dây Pallium chỉ Chúa Cứu Thế khi gặp chúng ta như chiên lạc đàn, Ngài vác lên vai, và khi nhận lấy nhân tính con người trong cuộc nhập thể, Ngài thần hóa nhân tính ấy bằng cái chết của Ngài trên Thánh Giá, Ngài dâng chúng ta cho Chúa Cha, và qua cuộc phục sinh, Ngài nâng chúng ta lên cao”. Vì thế dây Pallium nhắc nhớ vị Mục Tử nhân lành (cf Ga 10,11), vác trên vai con chiên lạc (cf Lc 15,4-7), và 3 câu trả lời yêu mến đáp lại 3 câu Chúa Giêsu Phục Sinh hỏi thánh Phêrô, và Chúa dạy thánh nhân hãy chăn các con chiên con và chiên mẹ của Ngài (cf Ga 21,15-17).
3 vị Hồng Y là Angelo Sodano, niên trưởng HY đoàn, trưởng đẳng GM, ĐHY Godfried Danneels, nguyên TGM Bruxelles bên Bỉ, trưởng đẳng HY Linh Mục, và ĐHY Jean Louis Tauran, người Pháp, trưởng đẳng HY Phó tế lần lượt tiến lên trước mặt ĐTC. ĐHY Tauran cầu xin Thiên Chúa của hòa bình ban cho ĐGH dây Pallium đã lấy từ bàn thờ tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô Tông Đồ, là Đấng mà Mục Tử nhân lành đã truyền chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài, và ngày hôm nay ĐTC kế vị thánh nhân. Xin Thánh Thần Chân Lý ban ơn soi sáng và phân định cho sứ vụ của ĐTC củng cố các anh em trong đức tin duy nhất.
Rồi ĐHY trưởng đẳng Phó tế tiến lên đeo dây Pallium vào cổ Đức tân Giáo Hoàng, tiếp đến ĐHY trưởng đẳng LM Danneels kết thúc với lời nguyện: ”xin Thiên Chúa chúc lành và củng cố ơn Thánh Linh để sứ vụ của Đức tân Giáo Hoàng tương ứng với sự cao cả của đoàn sủng mà Chúa đã ban cho Người.”
Sau đó là nghi thức trao nhẫn Ngư Phủ. Ngay từ ngàn năm thứ I, nhẫn là biểu hiệu riêng của Giám Mục. Chiếc nhẫn Ngư Phủ được trao cho ĐTC Phanxiô bằng bạc có hình thánh Phêrô đang cầm chìa khóa, có nghĩa đó là nhẫn chứng thực thực đức tin và nói lên nghĩa vụ được ủy thác cho thánh Phêrô là củng cố các anh em mình (cf Luca 22,32). Nhẫn này được gọi là Nhẫn Ngư Phủ vì thánh Phêrô là Tông Đồ Ngư Phủ (cf Mathêu 4,18-19). Sau khi tin vào lời Chúa Giêsu (cf Luca 5,5), thánh nhân đã thả lưới và kéo vào bờ mẻ cá lạ lùng (cf Gioan 21,3-14).
ĐHY Angelo Sodano, trưởng đẳng GM, nói: ”Kính thưa Đức Thánh Cha, chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Mục tử và là Giám mục của các linh hồn chúng ta, Đấng đã xây dựng Giáo Hội trên đá tảng, ban cho ĐTC Nhẫn này, ấn tín của Thánh Phêrô Ngư Phủ, Người đã sống niềm hy vọng trên biển Tiberiade và Chúa đã trao cho Người chìa khóa nước trời. Ngày hôm nay, ĐTC kế vị Thánh Phêrô trong Giám mục đoàn của Giáo Hội này, làm đầu trong tình hiệp thông hiệp nhất theo giáo huấn của Thánh Phaolô Tông Đồ. Xin Thánh Thần tình yêu được phú vào tâm hồn chúng ta làm cho ĐTC được tràn đầy sức mạnh và sự dịu dàng để giữ gìn các tín hữu Chúa Kitô, qua sứ vụ của ĐTC, trong sự hiệp thông duy nhất”.
Rồi ĐHY Sodano trao Nhẫn Ngư Phủ cho ĐTC, giữa tiếng vỗ tay vang dội của cộng đoàn.
Tiếp đến là nghi thức tuân phục. Hồi ĐGH Biển Đức 16 khai mạc sứ vụ, ngoài các Hồng y còn có các đại diện LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân, tổng cộng là 12 người, nhưng lần này chỉ có 6 HY đại diện, mỗi đẳng GM, LM và Phó tế 2 vị. Hai vị đứng đầu là ĐHY Giovanni Battista Re và ĐHY Bertone.
Trong nghi thức này không có đại diện LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân vì họ sẽ cử hành nghi thức tuân phục trong buổi lễ ĐTC Phanxicô sẽ cử hành trong mùa Phục Sinh khi đến nhận Nhà thờ chính tòa giáo phận Roma của ngài là Đền thờ thánh Gioan Laterano.
Thánh lễ kính Thánh Giuse với kinh nguyện và các bài đọc đi kèm bắt đầu sau nghi thức nhận Pallium và nhẫn Ngư Phủ của ĐTC.
Bài Tin Mừng được hát bằng tiếng Hy Lạp kể lại sự tích thánh Giuse sau khi thấy Đức Maria có thai, thì toan tính âm thầm bỏ rơi Người, nhưng đã được Sứ thần Chúa hiện ra trong giấc mộng và dạy hãy đón nhận Đức Maria về nhà mình.
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng tiếp đó bằng tiếng Ý, ĐTC nói:
Anh chị em thân mến,
Tôi cảm tạ Chúa vì được cử hành Thánh Lễ này, khai mạc sứ vụ Phêrô trong ngày lễ trọng kính Thánh Giuse, Hôn Phu của Đức Trinh Nữ Maria, và là Bổn Mạng của Giáo Hội: đây là một dịp trùng hợp đầy ý nghĩa và cũng là lễ bổn mạng của Vị Tiền Nhiệm Đáng Kính của tôi: chúng ta gần gũi ngài trong kinh nguyện, đầy lòng quí mến và biết ơn (vỗ tay).
Tôi thân ái chào các anh em Hồng y và Giám Mục, các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và tất cả anh chị em giáo dân. Tôi cám ơn các đại diện của các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội khác hiện diện nơi đây cũng như các đại diện của cộng đồng Do thái và các cộng đồng tôn giáo khác. Tôi gửi lời chào nồng nhiệt đến các vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ, các phái đoàn chính thức của bao nhiêu nước trên thế giới và ngoại giao đoàn.
Chúng ta đã nghe trong Tin Mừng rằng ”Giuse làm như Thiên Thần Chúa đã truyền và đón nhận hiền thê của mình” (Mt 1,24). Trong những lời này có gồm tóm sứ mạng mà Thiên Chúa ủy thác cho Giuse, sứ mạng làm người canh giữ. Nhưng canh giữ ai? Thưa là canh giữ Mẹ Maria và Chúa Giêsu, nhưng đó là một sự canh giữ được nới rộng cho toàn thể Giáo Hội, như Chân phước Gioan Phaolô 2 đã nhấn mạnh: ”Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Đức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Đức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Thánh Giuse thi hành công việc canh giữ ấy như thế nào? Thưa một cách kín đáo, khiêm tốn, trong thinh lặng, nhưng với một sự hiện diện liên lỷ và trung tín hoàn toàn, cả khi Ngài không hiểu. Từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Đền thờ Jerusalem, Ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của Ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Đền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazareth, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi gìn giữ Mẹ Maria, Chúa Giêsu và Giáo Hội như thế nào? Thưa trong sự luôn quan tâm để ý tới Thiên Chúa, cởi mở đối với những dấu hiệu của Chúa, sẵn sàng đối với dự phóng của Chúa, không phải tới điều riêng của mình, nhưng điều mà Thiên Chúa yêu cầu Vua Davít, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ I; Thiên Chúa không mong ước một nhà do con người làm ra, nhưng Chúa muốn lòng trung thành với Lời Ngài, với kế hoạch của Ngài; và chính Thiên Chúa xây dựng căn nhà, nhưng bằng những viên đá sống động nhờ Thánh Thần của Ngài. Và thánh Giuse là người ”canh giữ”, vì Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân càng nhạy cảm hơn đối với những người được ủy thác cho Ngài, biết đọc các biến cố một cách thực tế, chú ý đến những gì ở chung quanh và biết đưa ra những quyết định khôn ngoan hơn. Các bạn thân mến, chúng ta thấy thánh Giuse đáp ứng ơn gọi của Chúa như thế nào, với thái độ sẵn sàng, mau mắn, nhưng chúng ta cũng thấy đâu là trung tâm điểm ơn gọi Kitô, là chính Chúa Kitô! Chúng ta hãy gìn giữ Chúa Kitô trong đời sống chúng ta, để giữ gìn những người khác, để giữ gìn thiên nhiên, công trình sáng tạo.
”Nhưng ơn gọi của người canh giữ không phải chỉ liên hệ đến các tín hữu Kitô chúng ta mà thôi, nhưng còn có một chiều kích đi trước và nhân bản, liên hệ tới tất cả mọi người. Đó là việc bảo tồn toàn thể thiên nhiên, vẻ đẹp của công trình tạo dựng, như được trình bày cho chúng ta trong Sách Sáng Thế và như thánh Phanxicô Assisi đã chỉ cho chúng ta; đó là tôn trọng đối với mỗi thụ tạo của Thiên Chúa và môi trường trong đó chúng ta sinh sống. Đó là giữ gìn con người, chăm sóc tất cả mọi người, mỗi người, với tình yêu thương, đặc biệt là các trẻ em, người già, những người yếu đuối hơn và thường ở ngoài lề tâm hồn chúng ta. Đó là chăm sóc lẫn nhau trong gia đình: vợ chồng gìn giữ nhau, và trong tư cách là cha mẹ, họ chăm sóc con cái, rồi với thời gian cả con cái cũng trở thành những người gìn giữ cha mẹ. Đó là sống những tình bạn chân thành, là một sự gìn giữ nhau trong sự tín nhiệm, trong sự tôn trọng và trong thiện ích. Xét cho cùng, tất cả đều được ủy thác cho sự gìn giữ của con người, và đó là một trách nhiệm liên hệ tới tất cả chúng ta. Anh chị em hãy trở thành những người gìn giữ hồng ân của Thiên Chúa.
”Và khi con người thiếu sót trách nhiệm của mình, khi chúng ta không chăm sóc công trình tạo dựng và các anh chị em chúng ta, thì khi ấy xảy ra sự tàn phá và con tim trở nên chai đá. Rất tiếc là trong mỗi thời đại, đều có những ”vua Hêrôđê” đề ra những mưu đồ chết chóc, hủy hoại và bóp méo khuôn mặt của con người nam nữ. Tôi muốn xin tất cả những người đang nắm giữ các vai trò trách nhiệm trong lãnh vực kinh tế, chính trị hoặc xã hội, tất cả những người thiện chí: ”Chúng ta hãy trở thành những người gìn giữ công trình tạo dựng, gìn giữ kế hoạch của Thiên Chúa được ghi khắc trong thiên nhiên, giữ gìn tha nhân, môi sinh; chúng ta đừng để cho những dấu hiệu tàn phá và chết chóc tháp tùng hành trình của thế giới chúng ta! Nhưng để ”gìn giữ” thì chúng ta cũng phải chăm sóc chính mình! Chúng ta hãy nhớ rằng oán ghét, ghen tương, kiêu ngạo làm cho cuộc sống bị nhơ bẩn! Gìn giữ có nghĩa là canh chừng những tâm tình chúng ta, con tim chúng ta, vì chính từ đó nảy sinh những ý hướng tốt hay xấu: những ý hướng xây dựng và những ý hướng hủy hoại! Chúng ta không được sợ sự tốt lành, và cũng đừng sợ sự dịu dàng!
”Và ở đây, tôi muốn ghi nhận thêm điều này: chăm sóc, giữ gìn, đòi phải có sự tốt lành, đòi phải được sống với sự dịu dàng. Trong các sách Phúc Âm, thánh Giuse xuất hiện như một người mạnh mẽ, can đảm, chuyên cần làm việc, nhưng trong tâm hồn Ngài trổi vượt một sự rất dịu dàng, đây không phải là đức tính của kẻ yếu, trái lại, nó chứng tỏ một tâm hồn mạnh mẽ và có khả năng chú ý, cảm thương, thực sự cởi mở đối với tha nhân, yêu thương. Chúng ta không được sợ sự tốt lành và dịu dàng!
”Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân GM Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm một quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có 3 lời mời gọi: hãy chăn các chiên con, hãy chăn giắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Mathêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức bác ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (Xc Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!
Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô nói về Abraham, người ”đã tin, kiêm vững trong niềm hy vọng bất chấp mọi nghịch cảnh” (Rm 4.18). Kiên vững trong niềm hy vọng, bất chấp mọi nghịch cảnh! Cả ngày nay, đứng trước bao nhiêu chân trời đen xám, chúng ta cần thấy ánh sáng hy vọng và chính chúng ta trao ban hy vọng. Giữ gìn công trình tạo dựng, mỗi người nam nữ, với cái nhìn dịu dàng và yêu thương, đó chính là mở rộng chân trời hy vọng, là mở ra một luồng sáng giữa bao nhiêu mây mù, là mang sức nóng hy vọng! Và đối với tín hữu, đối với các tín hữu Kitô chúng ta, như Abraham, như thánh Giuse, niềm hy vọng mà chúng ta mang có chân trời của Thiên Chúa được mở rộng cho chúng ta trong Chúa Kitô, được xây dựng trên đá tảng là Thiên Chúa.
”Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến điều Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!
”Tôi cầu khẩn sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, của Thánh Giuse, của thánh Phêrô và Phaolô, thánh Phanxicô, xin Chúa Thánh Linh tháp tùng sứ vụ của tôi, và tôi nói với tất cả anh chị em rằng: xin cầu nguyện cho tôi! Amen
Các ý nguyện
Bài giảng của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì những tiếng vỗ tay của các tín hữu, lần đầu khi ngài chúc mừng lễ Bổn mạng của Vị Tiền nhiệm và mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho Người.
Trong phần lời nguyện phổ quát, đã có 5 ý nguyện được xướng lên là tiếng Nga, Pháp, Arap, Swahili bên Phi châu và tiếng Hoa, lần lượt cầu cho Giáo Hội: Xin Thiên Chúa toàn năng nâng đỡ mọi người, các mục tử và tín hữu, sống tuân phục vô điều kiện đối với Tin Mừng; xin Chúa gìn giữ ĐGH Phanxicô trong việc thi hành sứ vụ của Người Kế Nhiệm Thánh Phêrô và Chủ Chăn của toàn thể Giáo hội; cầu cho các người cầm quyền: xin Chúa soi sáng tâm trí và hướng dẫn họ trong việc xây dựng nền văn minh tình thương; cầu cho những người nghèo khổ trên trái đất: xin Chúa bồi dưỡng, an ủi và ban cho họ niềm hy vọng nhờ lòng bác ái của các tín hữu Kitô; sau cùng là cầu cho gia đình của Thiên Chúa đang tụ họp trong thánh lễ: xin Chúa biến đổi cuộc sống của tất cả các tín hữu nên giống Chúa Giêsu.
Để rút ngắn thời gian buổi lễ, không có phần tiến dâng lễ vật, và ĐTC cũng không đích thân cho rước lễ, nhưng một thầy Phó tế đã làm thay. Trong khi đó có 500 LM mang Mình Thánh Chúa phân phát cho các tín hữu tại khu vực hành lễ. Sau thánh lễ, ở bên trong Đền thờ Thánh Thánh Phêrô, ĐTC đã chào thăm các vị thủ lãnh của 132 phái đoàn chính thức do chính phủ các nước gửi đến dự lễ. Bắt đầu là bà tổng thống Cristina Kirchner của Argentina và tổng thống Giorgio Napolitano của Italia.
Lễ khai mạc sứ vụ của ĐTC kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ và được nhiều tín hữu trên thế giới theo dõi qua truyền hình.
LM G. Trần Đức Anh OP
Posted on 10 Sep 2011
TOP
back to Audio FreeViet INDEX
|
...MORE COLLECTIONS
Huỳnh Thục Vy: Biểu tình là thể hiện tâm tư yêu nước! GM Nguyễn Thái Hợp: Vận dụng Sức Mạnh quần chúng! TS Nguyễn Xuân Nghĩa: Giờ Giải Ảo + Bên Kia Màn Khói Ts Phan Văn Song: Tinh thần Đại Việt giữ nước và cứu nước Ts Nguyễn Đình Thắng: Muốn thay đổi, phải hành động!
|