Hội Ngộ Dân Chúa 2011 được triệu tập ngày 3,4,5 tháng 6/2011 trong nỗi thao thức về Quê Hương và Giáo Hội, diễn ra tại miền Nam California Hoa Kỳ, sôi nổi, đầy tình cảm Kitô hữu và lòng yêu nước. Nhiều suy tư và nhận định, với các phát biểu phong phú của giới trí thức Công Giáo hải ngoại.
Sau đây là một số AUDIO tham luận Thứ Bảy 6/4/2011 thu âm từ phòng sinh hoạt của nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân, với sự giúp sức các các chiến sĩ truyền tin qua các phòng Paltalk "chinhtri", "nguoidan", "lien ket". Kính chuyển (một phần) tới quý vị và các bạn. Xin cáo lỗi quý vị diễn giả và thính giả về những chỗ âm thanh khiếm khuyết, truyền dẫn bị đứt quãng, thiếu sót, không rõ.
(quý vị bấm nghe âm thanh)
http://www.freevietnews.com/audio/07_NguyenMinhTam_gsLeTinhThong_ChuTatTien.m3u
(quý vị bấm nghe âm thanh)
http://www.freevietnews.com/audio/06_HoiNgoDanChua_MacGiao.m3u
(quý vị bấm nghe âm thanh)
http://www.freevietnews.com/audio/07_lmNguyenHuuLe_TraLu_PhamNguyen_NguyenVanLiem.m3u
-- Người cai trị có trách nhiệm chẳng những phải quản trị đất nước trong hiện tại, lo lắng bảo vệ sự vẹn toàn của đất nước, cho hạnh phúc của người dân, Còn phải có cái nhìn về vấn đề đất nước phải giải quyết, trong tương lai xa và tương lai gần....Dân tộc Việt Nam chúng ta đã trở thành công cụ để đảng cộng sản thực hiện giấc mơ quyền lực của họ! Và là một nơi để cho đảng cộng sản thử nghiệm chế độ cộng sản của họ! Họ bất kể xương máu của nhân dân và tài sản của nhân dân. Thí dụ như vấn đề tham nhũng, y tế, giáo dục, họ không chăm lo gì cho người dân....Rất đau lòng, nhà nước Việt Nam đối xử với người dân quá tệ hại, như chúng ta thấy những vụ Đồng Chiêm, Loan Lý, Cồn Dầu..chúng đuổi dân đi, chiếm đất, còn đưa quân đội công an đến đánh đập họ tàn nhẫn. Đánh đập tu sĩ linh mục, đánh phụ nữ có bầu, đánh ngất xỉu, đánh lòi mắt....Đó là những chuyện thật....(nhà văn Mặc Giao)
-- Tôi nhận thấy rằng Công Giáo Việt Nam đang bị nô lệ ý chí bởi hàng giáo sĩ. Nói cách khác, Giáo dân Việt Nam chưa trưởng thành trong đời sống Kitô giáo. Đó là điều tôi luôn luôn cổ võ là giáo dân phải thủ đúng vai trò của mình, giáo dân phải mạnh dạn nhận trách nhiệm mình trong lịch sử của giáo hội. Giáo dân phải nhận trách nhiệm của mình trước mặt Giáo Hội, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Dân Tộc. Với điều đó, luôn luôn có tôi đàng sau các anh ....(Linh mục Nguyễn Hữu Lễ)
-- Đức Cha Benedicto 16 khi còn là Hồng Y, trong tác phẩm Muối Cho Đời, đã nói rằng "Giáo hội không bao giờ được phép chạy theo thời, phải nói lên cái xấu và cái nguy của thời đại, phải nhắc nhở lương tâm những kẻ có quyền, cả những người trí thức, cả những kẻ thờ ơ hẹp hòi, trước những nổi thống khổ của thời đại. Lời Chúa trong Kinh Thánh và những lời của các giáo phụ như vang lên trong đầu tôi, kết án nặng nề những mục tử nào làm chó câm, để tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Im lặng không phải là bổn phận hàng đầu của người công dân"
...Linh mục Nguyễn Trọng Viễn trong tác phẩm của ngài, với tựa đề "Những căn bệnh trầm kha trong đời sống Đức Tin Công Giáo tại Việt Nam", xuất bản năm 2008: xin các giám mục và linh mục quản xứ tổ chức thường xuyên các buổi tĩnh tâm cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, và những lớp học hỏi về học thuyết xã hội công giáo, thánh kinh, linh thao, tĩnh tâm, v.v.. tại các tu viện và giáo xứ. Đây là cơ hội cho giáo sĩ và giáo dân thăng tiến đời sống tâm linh, cũng như nâng cao trình độ hiểu biết về Chúa Giêsu, và các giáo huấn quan trọng của giáo hội. Qua những buổi gặp gỡ thường xuyên như thế, tình bạn triển nở, và họ trở nên khắn khít với nhau hơn. Nhờ đó, họ cảm thấy an toàn và can đảm hơn, khi tranh đấu cho tự do, công lý, dân chủ. Và sẵn sàng bênh vực những đồng hương cô thế, không phân biệt tôn giáo, không có tiếng nói, bị áp bức tàn bạo dã man.....Xin các ngài đồng thanh can đảm phản đối chính quyền cướp đoạt Tự Do Tôn Giáo, can đảm chống lại Sự Ác dưới mọi hình thức, như các ngài đã kêu gọi tín hữu Việt Nam trong Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa ban hành ngày 28.4.2011
(Gs Lê Tinh Thông)
-- Nói tới cộng sản và những tệ hại của nó là vô cùng, không bao giờ hết. Nó sai luôn luôn vậy, bởi vì những nguyên tắc của nó đều sai. Kinh tế thị trường theo xã hội chủ nghĩa, là một câu mâu thuẫn, nói trắng là đen, đen là trắng, không thể hiểu được. Tất cả cái gì nó làm là sai luôn. Câu đó nó sai, và tất cả việc làm của cộng sản là sai, bởi vì kinh tế thị trường không thể theo chủ nghĩa nào cả, mà phải dân chủ tự do... Muốn kinh tế thị trường tự do dân chủ, thì phải có tam quyền biệt lập, lập pháp, hành pháp, tư pháp kiểm soát nhau, thì kinh tế thị trường mới điều hòa, mới công bằng, có công lý. Bởi thế cho nên nói hoài vì cái sai lầm của cộng sản, vì cái gốc của nó đã sai rồi, vì cái ngọn nó đã thối, cái giòng nước cũng thối luôn. Chúng ta phải xóa bỏ nó, Gorbachev nói bỏ nó vào sọt rác ....(một vị phát biểu)
-- Chúng tôi quan niệm, khi nói lên sự thật, dù là sự thật đau lòng, vẫn còn hơn là che dấu trong sự phỉnh gạt, qua cái vẻ ngoài hào nhoáng. Cho dù chúng tôi có thể bị chụp mũ là đánh phá giáo hội, có thể là xuyên tạc, như một vị Giám mục đã nói thẳng với tôi. Mặc kệ, miễn là chúng ta không làm cái "sự dữ" đó là được rồi. Vì vậy, tôi, một cây viết trong Diễn Đàn Giáo Dân, luôn luôn thẳng thắn phê phán những gì cần được phê phán. Tôi tin vào lời của Thánh Giacôbê nói: ai không làm điều lành là có tội. Và điều chúng tôi đang làm, chắc chắn đó là điều lành....
(Bà Nguyễn Minh Tâm)
-- Trong bao lâu nay, hải ngoại chúng ta đã làm rất nhiều điều. Chúng ta làm cái loa cho những người trong nước. chúng ta đã viết nhiều thỉnh nguyện thư lên cho những người lãnh đạo, không những ở Hoa Kỳ mà còn khắp nơi trên thế giới. Và chúng ta đã thông tin tất cả những việc xảy ra, về những phản đối của những trong nước, để cộng đồng hải ngoại đều biết. Trong nhiều năm qua, đặc biệt là yểm trợ một cách tích cực, từ Âu châu Mỹ Châu tiểu bang này sang tiểu bang khác, cá nhân này sang cá nhân khác, cho các nhà dân chủ trong nước.....
(nhà văn Chu Tất Tiến)
Kính mời quý vị theo dõi tiếp một số AUDIO diễn tiến cuộc Hội Ngộ Dân Chúa được tổ chức vào chiều Thứ Bảy ngày 4/6/2011, thu âm được từ phòng sinh hoạt của nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân chuyển lên PALTALK -- với các bài thuyết trình và thảo luận về hiện tình Quê Hương và Giáo Hội Công giáo, vai trò truyền thông, và dự kiến sẽ thành lập Phong trào Công Lý và Hòa Bình để yểm trợ Việt Nam, trong tình hình sôi bỏng hiện thời.
Phát biểu của ông Trần Phong Vũ, ông Ngô Đức Diễm và các thảo luận về vai trò của Truyền Thông Công giáo
http://www.freevietnews.com/audio/HoiNgoDanChua_chieu_saturday_01.m3u
Phát biểu của Bác sĩ Trần văn Cảo và các thảo luận
xoay quanh dự kiến thành lập Phong Trào Công Lý
và Hòa Bình tại hải ngoại, để yểm trợ quốc nội
http://www.freevietnews.com/audio/HoiNgoDanChua_chieu_saturday_02.m3u
Phát biểu của ông Trần Phong Vũ, ông Phạm Hồng Lam, ông Đỗ Như Điện và các góp ý về Công Lý và Hòa Bình.
http://www.freevietnews.com/audio/HoiNgoDanChua_chieu_saturday_03.m3u
Phát biểu nhà văn Trần Phong Vũ,
nhà văn Mặc Giao và quý vị khác
http://www.freevietnews.com/audio/HoiNgoDanChua_chieu_saturday_04.m3u
Phát biểu của Cụ Nguyễn văn Tánh và quý vị khác.
http://www.freevietnews.com/audio/HoiNgoDanChua_chieu_saturday_05.m3u
Phát biểu của ông Nguyễn văn Liêm
Bác sĩ Trần Việt Cường & quý vị khác
http://www.freevietnews.com/audio/HoiNgoDanChua_chieu_saturday_06.m3u
Nhà văn Trần Phong Vũ: Thật sự, Truyền Thông là sự sống, là da thịt, để làm nên tất cả những gì chúng ta trình bày chung ngày hôm nay. Ở đây, đề tài là "Vai trò quan trọng của truyền thông Công giáo". Chúng tôi xác định thật rõ ràng như vậy. Vì ý thức và quan niệm của nó quan trọng như vậy, cho nên riêng Diễn Đàn Giáo Dân đã hai lần tổ chức những cuộc gặp gỡ, đông đảo những anh em ở hải ngoại về, dù không có cái gửi gấm, cái ủy thác của nhiều người để làm như lần này...
-- Lần thứ nhất, chúng tôi đã có những cuộc thảo luận xoáy vào người Công giáo và sứ mạng làm truyền thông Công giáo. Để chúng tôi xác định một thế đứng, khoanh vùng một trách nhiệm, để chúng tôi không bao giờ đi ra ngoài cái đó, cố gắng tối đa. Lần thứ hai, kỷ niệm 7 năm, chúng tôi đi tiến thêm một bước, chúng tôi đã cố gắng làm sao để sống và đi tìm cho được một cái linh đạo, một con đường linh thiêng. Con đường chiếu toả từ trong Phúc Âm, từ trong thánh truyền, từ trong giáo huấn của giáo hội, để chúng tôi hiểu rằng trách nhiệm làm truyền thông của chúng tôi như thế nào.....
-- Môt đề tài mà có lẽ tất cả chúng ta đều thao thức trong phương diện cá nhân, cũng như mỗi khi gặp gỡ nhau, đó là đề tài chúng ta làm thế nào gợi ý về khả năng và trách nhiệm của người tín hữu Công giáo ở hải ngoại, đối với giáo hội ở quê nhà, tùy theo người suy nghĩ, và tùy theo những người đóng góp sau này, để chúng ta có thể hình thành một cái gì đó -- một phong trào, một tổ chức, một cơ cấu, một phương thức nào để có thể quy tụ những người Việt Nam ở hải ngoại này. Để đóng góp vào những suy nghĩ của chúng ta, giúp làm thay đổi đi bộ mặt đất nước. Muốn có sự thay đổi đó, thì phải có sự thay đổi về mặt tôn giáo, trong đó có giáo hội Công giáo....
--- Công Lý Hòa Bình chỉ là một từ ngữ chúng ta tán thành một đường hướng, một suy tư sâu thẳm của giáo hội, khi nghĩ tới điều mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô nhắc đi nhắc lại "con người là đường đi của Giáo Hội, đích điểm hàng đầu để Giáo Hội phục vụ". Thế thì con người đó gắn vào một xã hội có thể có chiến tranh, có thể có hòa bình, có thể có bất công có công lý. Thế thì con người đó không thể có tình trạng bấp bênh như vậy được. Con người đó phải được nuôi dưỡng trong một xã hội có Công Lý, và có Hòa Bình, để họ có thể sống an vui và được phát triển... Muốn rằng xã hội phải có công lý, bởi vì đó là khát vọng của con người. Xã hội phải có hòa bình, đó cũng là đáp ứng cái khát vọng của con người, và con người là đích điểm hàng đầu để giáo hội phải phục vụ.
-- Việc gì chúng ta chọn lựa, thì phải làm. Trong 30 năm qua, có những tổ chức người Công giáo muốn làm chuyện này chuyện nọ, rốt cuộc vì bị vướng mắc vào một số ràng buộc, mà không làm được gì cả....Liệu chúng ta nêu lên một danh xưng liên hệ, từ ngữ được dùng từ giáo hội, từ Hội Đồng Công Lý Hòa Bình đến các Ủy Ban Công Lý Hòa Bình ở các Hội Đồng Giám Mục ở các nước, thì liệu ta có dẫm chân lên việc làm cuả giáo hội không? Theo tôi, không. Tại sao vậy? Cũng cùng một danh xưng đó? Tôi xin nói quan điểm riêng của cá nhân tôi, chính cái điều này làm sáng lên cái tư cách, trách nhiệm, tinh thần và ý thức của người giáo dân! Trước hết, luôn luôn bám sát vào cốt lõi Niềm Tin và nền tảng căn bản của Giáo Hội. Bởi vì Hội Đồng Công Lý Hòa Bình, như bác sĩ Trần văn Cảo đã nhấn mạnh, đi từ Ủy Ban Công Lý Hòa Bình do Đức Giáo Hoàng PhaoLô VI khởi sự và sau đó qua đời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, được biến thành một Hội đồng, một Bộ, Thánh Bộ. Tức là xác định một vị trí rất quan trọng. Chọn lựa chữ Hoà Bình và Công Lý gắn bó với nhau, mang một ý nghĩa đặc biệt.
--- Những người Công giáo đã đọc Thánh kinh, những người Công giáo đã am tường tất cả những giáo huấn, thánh truyền trong giáo hội, và nhận ra được sứ mạng của mình trong Giáo Hội đó, thì những người đó đều nhận ra rằng Công Lý và Hòa Bình là một trong những mục tiêu căn bản mà người Công giáo phải đi. Thế thì, khi đã được định nghĩa như vậy, thì bất cứ một người Công giáo nào đều có thể nhân danh điều đó, để mà đem Tin Yêu vào trong đời sống, đem Công Lý xóa bỏ những sự bất công, đem Hòa Bình hàn gắn lại những vết thương đổ vỡ của chiến tranh. Khi chúng ta chỉ nhân danh những điều đó, chỉ cần đứng trên cái thế đứng của một người Công giáo thôi, ta có thể làm cái chuyện đó. Chúng ta làm như thế nào, thì hôm nay chúng ta được nghe tiếng nói chung của tất cả những quý vị ở đây...
Ông Ngô Đức Diễm: Truyền thông của chúng ta phải dựa trên Sự Thật, thông tin trên sự thật, hoàn toàn khác với tuyên truyền. Tuyên truyền thường chỉ có một chiều trên xuống và bắt người dân phải nghe. Còn chúng ta làm truyền thông luôn luôn có hai chiều, có chiều đi và đáp lại. ...Truyền thông Công giáo còn là một mệnh lệnh, vì người làm truyền thông Công giáo tham gia và đồng công cứu chuộc, tham gia vào công cuộc cứu thế và canh tân trần thế, làm đẹp cuộc đời... Nền tảng thứ nhất: Đức Kitô phải là tâm điểm của truyền thông Công giáo, bởi lẽ chính ngài là sự thật, là sự sống. Ngài là đường.
-- Trong Tân Ước, hình ảnh Đức Kitô đi rao giảng khắp miền, cảnh báo Nước Trời đã gần đến chính là hình ảnh người làm truyền thông Công giáo, gieo bước khắp nơi, để đem Tin Mừng cho trần thế, cho con người và chuyển thông điệp tình yêu cho trần thế, Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Truyền thông Công giáo là truyền thông của Tình Yêu, đặt căn bản trên Đức Kitô là trung tâm điểm cuộc sống con người. Truyền thông Công giáo phải được soi sáng và hướng dẫn bởi thần linh, bởi thánh linh, qua thần trí và thần trí của ngài. Nhờ thần trí của Thánh Linh, người làm truyền thông Công giáo có đủ sáng suốt để hướng dẫn dư luận
Nhà văn Mặc Giao: Những vấn đề có tính cách thời sự, thì chúng ta phải đáp ứng những đòi hỏi của như cầu hiện tại....Phong Trào Công Lý và Hòa Bình là một trong những đề nghị. Và chúng ta cần xác nhận, nếu chúng ta có làm một cái gì thì không dẫm chân vào cái tổ chức Công Lý và Hòa Bình của giáo hội. Dẫm chân vào đó, muôn vàn chuyện rắc rối! Sẽ bị từ chối. Nếu không từ chối, thì sẽ bị chỉ huy từ trên xuống dưới, chúng ta lại không làm được gì hết! Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai: chúng ta không có lập đảng chính trị, để mà khỏi, xin lỗi, cạnh tranh với Cha Nguyễn Hữu Lễ và quý vị khác ở đây (cười). Chúng ta làm để mà đáp ứng tình thế. Tôi mường tượng nếu mà có Phong Trào Công Lý và Hòa Bình mà anh em chúng mình làm được, thì có hai vấn đề. Thứ nhất, chúng ta hãy lên tiếng kịp thời, để tố cáo những điều sai trái, những điều bất công (âm thanh đứt)
-- Nếu phối hợp được với các tổ chức trong những hàng ngũ mà chúng ta có mặt ở đây, ở những địa phương ở Mỹ hay ở Canada chúng tôi, đó đã là điều khá tốt. Anh em Canada chúng tôi đã phối hợp 4 địa phương với nhau, tuy là chúng tôi chưa có góp vốn để làm những chương trình như chúng tôi muốn, nhưng mà chúng tôi đã ra một cái thông lệ với nhau: khi tôi thấy ở địa phương này có như cầu, mà nhóm của tôi có thể yểm trợ được, thì chúng tôi điều tra cái nhu cầu đó, yểm trợ, và thông báo cho tất cả các nhóm khác ở Canada biết --- là ngày này giờ này nhu cầu này chúng tôi đã gởi cái gì cho tổ chức nào, cái gì cái gì. Để anh em những nơi khác cũng làm tương đương như vậy. Họ giúp đỡ cái gì, họ làm cái gì, họ thông báo tất cả cho chúng tôi biết.....Thì chúng tôi đã thử tại Canada trong vòng hơn một năm nay, ít nhất 4 nhóm chúng tôi đã đi được cái phối hợp đó. Thì nếu chúng ta thành lập Phong Trào Công Lý và Hòa Bình, đầu tiên chúng ta hãy nghĩ tới hai chuyện như vậy....
Nhà văn Trần Phong Vũ: Chúng tôi chỉ muốn gợi ra một cái ý thôi. Cá nhân tôi có thể cũng là nhân danh một số người lớn tuổi. Chúng tôi sẽ chẳng làm được cái gì cả, bởi vì là những người sắp sửa nhìn thấy những nấm mồ trước mắt mình rồi. Chuyện đó, còn ngày nào là còn cố gắng thôi.Khi nào còn có hơi thở là còn tiếp tục làm việc, như những gì mình đã làm và đang làm. Nhưng mà chuyện tương lai vẫn phải là giới trẻ. Tôi rất mong là những người trẻ ở đây sẽ đóng góp ý kiến. Trẻ ở đây không chỉ phải là những 20 mấy 30 mấy đâu. Tôi vẫn nghĩ là những người trẻ tương đối ở đây của chúng ta, 50 tuổi tôi vẫn nghĩ là trẻ. 70 tuổi tôi vẫn nghĩ là trẻ. Bởi vì hầu hết anh em chúng tôi là vào cái tuổi 80 rồi! Là cái tuổi mà người ta nói là tính ngày tính giờ rồi. Thế thì vấn đề của chúng tôi chỉ là khơi gợi ra, và mong là các bạn sẽ có ý kiến rất nhiều. Quý bạn ở đây có mặt từ khắp bốn phương, từ các quốc gia Âu Châu, Úc Châu, ở bên Canada....
Bác sĩ Trần Văn Cảo: Một cử tọa chọn lọc, những vị mà chúng tôi rất kính phục. Cuộc hội ngộ này không phải chỉ để nói, đến để phát biểu, nhưng có tri phải có hành, nếu tri không hành là một sự thiếu sót lớn. Chúng tôi muốn rằng khi quý vị ra khỏi phòng họp chiều hôm nay, chúng ta có một kết quả gì, một hành trang gì để đem về bốn phương trời. Để đáp ứng lại hiện tình Giáo hội và Quê hương, để phục vụ Giáo hội và Quê hương......Dân tộc chúng ta đang trải qua một thời kỳ đen tối, dưới sự cai trị hà khắc của của một chế độ đảng trị, không bằng Công Lý mà bằng công an và côn đồ trị. Hơn nữa, quý vị cũng đã thấy một hiểm họa chiến tranh lấp ló, vì một chế độ ươn hèn thối nát sẽ dễ dàng đưa tới sự xâm lược từ phương bắc, có thể xảy ra chiến tranh và tình trạng Bắc thuộc...
--- Xin đi vào đề nghị là chúng ta có nên, có cần, có khả thi trong việc phát động và thành lập Phong Trào Công Lý và Hòa Bình Việt Nam Hải Ngoại. Sở dĩ chúng tôi trình bày điều đó là vì chúng tôi muốn để quý vị có một cái sườn, để một lát nữa đây đi vào vấn đề thảo luận, để chúng ta có thể đi đến một nhận định chung nào đó. Về danh xưng và ý nghĩa "Phong Trào" có tính cách phổ quát, rộng lớn và quy mô không những trên phương diện hoạt động, mà còn cả trên phương diện về quốc gia và tôn giáo, vượt qua khỏi lãnh vực của Công giáo để có thể kết hợp những nhân sự cũng như hoạt động của những người không cùng tôn giáo, nhưng cùng một mục đích là phục vụ, tranh đấu cho Công Lý và Hòa Bình.
-- Thứ hai, "Công Lý và Hòa Bình", như chúng tôi vừa trình bày với quý vị, cái phong trào này hoạt động dựa trên những tiêu chuẩn và mục đích mà Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình (Vatican) đã đề ra. Thứ ba là "Việt Nam Hải Ngoại" để nói rằng phong trào này là dành cho những người Việt Nam ở hải ngoại. Về cơ cấu nhân sự cũng những tổ chức sẽ độc lập, và không lệ thuộc vào Ủy Ban Công Lý Hòa Bình ở trong nước, mặc dù phương thế hoạt động thì dựa vào nhau, và hỗ trợ lẫn nhau về nhân sự, phương tiện, đường lối chính sách hoạt động. Về danh xưng và ý nghĩa, có thể có quý vị sẽ hỏi rằng chúng ta có khả năng làm chuyện đó không. Chúng tôi thấy nó khả thi, bởi vì mục đích và đường lối hoạt động là đường lối và phương hướng của giáo hội. Về sự thuận lợi, thì qua những tiếp xúc của cá nhân chúng tôi, với hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, chúng tôi nhận được những sự khích lệ...
Bác sĩ Trần Việt Cường: Tôi phấn khởi cảm phục những vị từ khắp mọi miền trên địa cầu, sau 36 năm, hy vọng cho Việt Nam, là vẫn còn chúng ta ở đây. Những người tại hải ngoại mang theo Quê Hương, vẫn còn những thao thức. Tôi nghĩ tới một niềm hy vọng lớn cho Quê Hương cho giáo hội. Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ Hoa Địa Ngục có bốn câu thơ như thế này: "vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối, sợ hy sinh và tiếc máu xương, cả nước đã rơi vào một mối, một mối hận thù, một mối đau thương". Hy vọng chúng ta có mặt ở đây chứng tỏ là chúng ta không sợ hy sinh, và không tiếc sự hy sinh đóng góp cho Quê Hương. Quý vị ở khắp các phương trời, tôi nghĩ, như một ngọn gió của Chúa Thánh Thần đem lại hy vọng cho Quê Hương. Trong tinh thần đó, cái danh xưng Phong Trào Công Lý và Hòa Bình mang lại sự rạo rực trong tâm hồn tôi...
Ðừng sợ ! (Ga 20, 19-31)
VRNs (01.05.2011) -- Sài Gòn -- Tin mừng hôm nay thuật lại :
“…, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ …”.Mình cũng đang sợ, sợ đủ điều,
sợ thế gian đanh đá,
sợ thế gian giảo quyệt,
sợ thế gian to tiếng,
sợ thế gian hận thù, …
Ðức Giêsu đến đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em!”.
Ngày hôm nay có một người đang nói với chúng ta:
“Ðừng sợ !”
Gioan Phaolô II !Vâng ! Cha đã không sợ,
Không sợ thế gian, không sợ bất cứ điều gì của nó.
Tại sao con lại sợ !
Tạ ơn Thiên Chúa, tôn vinh Gioan Phaolô II
Chúng con không sợ !
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.(source: Dong Chua Cuu The - http://www.vrmi.org/2011/05/01/d%E1%BB%ABng-s%E1%BB%A3-ga-20-19-31/)
(source: Dong Chua Cuu The - http://www.vrmi.org/2011/05/01/d%E1%BB%ABng-s%E1%BB%A3-ga-20-19-31/)CÁC GIÁM TỈNH ÐÔNG Á, ÚC PHẢN ÐỐI
NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM
CẤM MỘT LINH MỤC XUẤT CẢNH
|
Tin tổng hợp - Các Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế vùng Ðông Á và Úc châu đã đồng loạt lên tiếng phản đối nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam cấm linh mục Giám tỉnh Dòng ở Việt Nam xuất cảnh. Theo thông báo của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, ngày 10 tháng 7 vừa qua, công an Cộng sản đã cấm linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành, lên máy bay ra nước ngoài khi ông đến phi trường Tân Sơn Nhất để lên đường sang Singapore dự Hội nghị các Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế vùng Ðông Á và Úc châu từ ngày 11 đến 14 tháng 7. Biên bản của công an không ghi rõ lý do cấm xuất cảnh, mà chỉ ghi là linh mục Phạm Trung Thành thuộc diện chưa được xuất cảnh.
Ngày hôm sau Tỉnh Dòng Chúa Thế Việt Nam đã ra thông cáo chỉ trích hành động của công an là xâm hại đến quyền tự do tôn giáo của người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp và lạm dụng quyền hành để đàn áp tôn giáo. Sau đó đến lượt các Giám tỉnh DCCT cùng Ðông Á và Úc châu bao gồm Úc, Tân Tây Lan, Nam Dương, Mã Lai, Singapore, Phi Luật Tân và Thái Lan gởi thư cho đại sứ Cộng sản Việt Nam phản đối việc công an cấm linh mục Phạm Trung Thành xuất cảnh. Các Giám tỉnh lên án việc hành xử thiếu ngay thẳng và bất công đối với linh mục Phạm Trung Thành, cho đây là một hành động vi phạm nhân quyền và đàn áp tôn giáo.
Các Giám tỉnh Ðông Á và Úc châu nhấn mạnh rằng hành động nói trên đã ngăn cản linh mục Phạm Trung Thành tham dự hội nghị ở Singapore, mà mục đích chỉ là nhằm thúc đẩy việc thực hiện sứ mệnh của Dòng này là phục vụ người nghèo và người bị bỏ rơi nhất trong vùng Á châu và Úc châu.(SBTN)
Công an lại cấm cha Ðinh Hữu Thoại xuất cảnh
VRNs (15.07.2011) – Tây Ninh – Trưa 12.07.2011, bộ phận phụ trách cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh đã tiến hành lập biên bản và không cho phép cha Giuse Ðinh Hữu Thoại, Chánh văn phòng tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam (DCCT-VN) xuất cảnh. Ðây là lần thứ 2 trong vòng 3 ngày, nhà chức trách Việt Nam ngăn cản không cho tu sĩ, linh mục DCCT-VN xuất cảnh, mà không hề thông báo trước như quy định của Nghị định 136/2007/ND-CP của Chính phủ.
Theo băng ghi âm cuộc làm việc giữa bộ đội biên phòng, đồn cửa khẩu Mộc Bài với cha Thoại, thì Bộ công an đã có văn bản chưa cho cha Thoại xuất cảnh từ ngày 27.12.2010 và kéo dài lệnh này đến 17.10.2015.
Cũng theo băng ghi âm này, trong biên bản có phần ý kiến của “đương sự”, tức người bị lập biên bản, ở đây là cha Thoại. Nhưng khi cha Thoại yêu cầu ghi thêm ý kiến của ngài vào biên bản thì bị những người lập biên bản từ chối. Họ cố tình cãi to tiếng, để át đi yêu cầu chính đáng. Ðiều cha Thoại muốn ghi thêm là “Tôi chưa nhận được văn bản thông báo chưa được xuất cảnh này”.
Cùng đi với cha Thoại còn có hai người khác. Một người sau khi được xuất cảnh đã trở lại đợi cha Thoại, và kịp đọc trên máy vi tính của bộ đội biên phòng, người đang xử lý trường hợp cha Thoại. Dòng chữ ghi chú về cha Thoại đại ý như sau: “Thành phần bất mãn, chống lại đường lối của đảng”.
Bất mãn là một trạng thái của cảm xúc, chứ không phải hành vi tội phạm, nên không thể dựa vào cảm xúc của ai đó, để kết tội họ. Chưa nói việc dựa vào cảm xúc đó có bằng chứng hay chỉ là quy chụp, vu khống. Còn đường lối của đảng cộng sản thì chỉ buộc các đảng viên theo thôi chứ, tại sao lại bắt một công dân không đảng phải theo hay ủng hộ dường lối đó, nếu họ thấy đường lối đó không đúng?
Qua sự kiện này, chúng tôi có thêm bằng chứng để khẳng định, những hành xử ngăn cấm các linh mục tu sĩ DCCT VN xuất cảnh hoàn toàn không có căn cứ pháp lý, mà chỉ là những hoạt động mang tính trả thù cá nhân, thị uy với cộng đồng.
Chúng tôi kêu gọi nhà chức trách phải trở về với những hành xử đúng mực của pháp luật, không tùy tiện tình cảm hay thù ghét cá nhân.
Mời quý độc giả nghe đoạn ghi âm do cộng tác viên từ Tây Ninh vừa chuyển cho chúng tôi, và biên bản lập ở cửa khẩu Mộc Bài, cấm cha Thoại xuất cảnh.
PV.VRNs
Cha giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế
Việt Nam gởi kháng thư
Nguồn: http://www.chuacuuthe.com/redemptorists/cha-giam-t%E1%BB%89nh-dcct-vn-g%E1%BB%9Fi-khang-th%C6%B0/
Hội nghị các Giám tỉnh DCCT lên tiếng phản đối nhà cầm quyền Việt Nam
|
VRNs (15.07.2011) – Hội nghị các Giám tỉnh DCCT vùng Ðông Á – Úc, gồm các nước Australia, New Zealand, Indonesia, Singapore/Malaysia, Philippines, Thailand và Việt Nam, từ ngày 11 đến 14/07/2011 vừa kết thúc hôm qua. Tất cả các Giám tỉnh hiện diện tại Hội nghị đã viết một kháng thư lên tiếng phản đối hành động vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo của công an VN khi lực lượng này ngăn chặn cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành, Giám tỉnh DCCT VN xuất cảnh tham dự Hội nghị vào chiều ngày 10/07/2011 vừa qua.
Kháng thư này sẽ được các vị Giám tỉnh gửi đến Ðại sứ quán Việt Nam đang trú đóng trên đất nước của họ.
Sau đây là bản dịch và nguyên văn bằng tiếng Anh của kháng thư:
Ngày 14/07/2011
Kính gửi: Ngài Ðại sứ, Ðại sứ quán Việt Nam
Từ: Các Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) vùng Ðông Á – Úc (Australia, New Zealand, Indonesia, Singapore/Malaysia, Philippines và Thailand)
Về việc: Công an TP.HCM, Việt Nam, cấm Linh mục Giám tỉnh DCCT Việt Nam xuất cảnh
Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành, Giám tỉnh DCCT Việt Nam đang trên đường tới Singapore tham dự Hội nghị các Giám tỉnh DCCT vùng Ðông Á – Úc, từ ngày 11 đến 14/07/2011, thì bị công an TP.HCM ngăn cản ngài rời Việt Nam.
Theo Thông cáo Báo chí số 2/2011 của Truyền thông Chúa Cứu Thế Việt Nam, công an Việt Nam đã vi phạm nhân quyền một cách trắng trợn, vi phạm tự do tôn giáo và vi phạm ngay chính Nghị định 136/2007/ND-CP của chính phủ Việt Nam.
Chúng tôi, các Giám tỉnh DCCT vùng Ðông Á – Úc, mạnh mẽ lên án việc hành xử thiếu ngay thẳng và bất công đối với người anh em của chúng tôi, linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành. Chúng tôi phản đối việc sách nhiễu và vi phạm nhân quyền của công an Việt Nam. Sự sách nhiễu này đã ngăn cản ngài tham dự Hội nghị của chúng tôi, nhằm thúc đẩy việc thực thi đặc sủng của Dòng Chúa Cứu Thế là phục vụ người nghèo và người tất bạt nhất trong vùng Á-Úc.
Chúng tôi hy vọng rằng hình thức sách nhiễu này nhắm vào các tu sĩ DCCT tại Việt Nam, cách riêng nhắm vào linh mục Phạm Trung Thành sẽ không tái diễn nữa. Những hành vi bất công ấy sẽ khó thúc đẩy thiện chí giữa Việt Nam với các nước của chúng tôi (Australia, New Zealand, Indonesia, Singapore/Malaysia, Philippines và Thailand).
Trân trọng,
Các Giám tỉnh DCCT vùng Ðông Á – Úc:
Rev. Paul Bird, C.Ss.R., Giám tỉnh Canberra (Australia)
Rev. Peter Brown, C.Ss.R., Bề trên Miền Aotearoa (New Zealand)
Rev. Sebastianus Ani Dato, C.Ss.R., Giám tỉnh Indonesia
Rev. Patrick Massang, C.Ss.R., Giám Phụ tỉnh Ipoh (Singapore và Malaysia)
Rev. Jovencio Ma, C.Ss.R., Giám tỉnh Cebu (Philippines)
Rev. Ariel Lubi, C.Ss.R. Giám Phụ tỉnh Manila (Philippines)
Rev. Joseph Apisit Kritsaralam, C.Ss.R.,
Giám Phụ tỉnh Bangkok (Thailand)
Bản tiếng Anh:
July 14, 2011
To: The Honourable Consul,
Embassy of Vietnam
From: Redemptorist Superiors of East Asia – Oceania (Australia, New Zealand, Indonesia, Singapore / Malaysia and Philippines)
RE: Police of HCM City, Vietnam,
putting a ban on the exit of
Provincial Superior of the Redemptorist
Province of Vietnam
Reverend Fr. Vincent Pham Trung Thanh, the Provincial Superior of the Province of Vietnam was about to fly to Singapore for a meeting of Redemptorist Superiors of East Asia – Oceania, scheduled for July 11 – 14th 2011, when he was prevented by the police of HCM City from leaving Vietnam.
According to the attached press release No. 2/2011 from the Vietnam Redemptorist News, what happened to Fr. Trung Thanh was a blatant violation of his human rights, a transgression against freedom of Religion, and a violation against Decree 136/2007/ND-CP.
We, the Redemptorist Superiors of East Asia- Oceania, strongly denounce this unfair and unjust treatment of our confrere, Reverend Fr. Vincent Trung Thanh. We lodge our protest regarding this act of harassment and violation of his human rights. This prevented him from participating in our meeting, the core of which is to further implement the charism of the Redemptorist Missionary Congregation in serving the poor and the most abandoned in Asia-Oceania.
We hope that this form of harassment towards the Redemptorist in Vietnam and, particularly, towards Reverend Fr. Trung Thanh will not be repeated. Such unjust acts do not promote goodwill thúc đẩy thiện chí between Vietnam and our respective countries.
Sincerely,
Redemptorist Superiors of East Asia-Oceania
(bài đọc thêm)Cầu Thang Thánh Giuse
Trần văn Huyến
Tôi theo nhóm
người trượt tuyết ngày 31/12/2011 từ Dallas trực chỉ hướng tây bắc tới thành
phố Santa Fe, tiểu bang New Mexico, với chủ đích là kiểm chứng 'Cầu thang Thánh
Giuse' tại nguyện đường Loretta.
Đã từ lâu tôi đã
nghe nói nhiều về chiếc cầu thang kỳ lạ này, được cho là chính Thánh Giuse kiến
tạo, nay có dịp thuận tiện nên mặc dù mùa đông giá lạnh với đường xá nguy hiểm
vì băng tuyết, tôi quyết định phải theo nhóm người, vượt ngàn dặm hiểm nguy để
có thể tới chứng kiến tận mắt và sờ tận tay chiếc cầu thang có một không hai
bên Tây bán cầu này.
Nguyện đường
Loretta tọa lạc tại số 207 Old Santa Fe Trail, khởi công xây dựng năm 1873 và
tới năm 1878 mới hoàn thành, chiều dài 30 mét 5, chiều ngang 8 mét, chiều cao
21 mét 3. Với kích thước này, cách đây 134 năm, nguyện đường Loretta được coi
là một nguyện đường lớn nhất tại Santa Fe,
thủ đô tiểu bang New Mexico.
Đức Cha Jean
Baptiste Lamy, người Pháp, đã mời kiến trúc sư Antoine Monly và con trai là
Projectus Monly từ Paris sang vẽ kiểu và xây Nhà thờ chính tòa St Francis, đồng
thời khuyến khích các nữ tu nhờ hai cha con ông Monly xây nguyện đường Loretta
theo mô hình nhà thờ Sainte Chapelle tại Paris mà họ đã tham gia trong công tác
trùng tu vào đầu thập niên 1800. Theo mô hình phổ thông các nhà thờ bên Âu châu
thời đó thì không có cầu thang lên gác lửng dành cho ca đoàn vì cầu thang sẽ
chiếm nhiều chỗ trong lòng nhà thờ. Vả lại, vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam
được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần
cầu thang.
Sau khi khánh
thành nguyện đường và cha con ông Monly đã rời khỏi thành phố thì thực tế đem
lại một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu
phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng thang gỗ.
Các nữ tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi
quan sát, đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì
gác ca đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ
kê ghế.
Giải pháp còn lại là hoặc vẫn phải dùng thang leo lên gác ca đoàn, hoặc
nới rộng nguyện đường dành chỗ làm cầu thang. Và dĩ nhiên, giảp pháp này cũng
không thể chấp nhận. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi
công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh
Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải
được giao cho Thánh Giuse lo liệu. Trong cuốn niên giám của Dòng còn ghi lời
phát biểu của Bà: "Chúng ta tôn kính Thánh Giuse mỗi ngày thứ tư hàng tuần
để xin Người trợ giúp, và đã nhiều lần, chúng ta chứng kiến sự can thiệp đầy
quyền thế của Thánh Giuse".
Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày
xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng và phó
thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già râu
tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ mộc
chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và 1
cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với
tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu
sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ. Sau khi giao
công việc, vì đức khiết tịnh, các nữ tu không tiện liên lạc với ông và để mặc
ông thợ tiến hành công tác, đồng thời tạm dùng một phòng học để cầu nguyện và
cử hành phụng vụ.
Sau thời gian
7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy
ông thợ đâu cả: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật
liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp
nơi và còn nhắn tin trên các báo địa phương, tuy nhiên, không ai nghe biết về
'ông thợ kỳ lạ' này.
Sau cùng, Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán
tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ
làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ 'huyền bí'
này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu
xin của các nữ tu. Hiện nay, tại Nhà Mẹ các nữ tu Loretta ở tiểu bang Kentucky,
trong sách kinh hàng ngày, có hình vẽ ông thợ mộc đầu tóc bạc phơ dắt theo con
lừa với túi đồ nghề gồm 1 cái cưa, 1 cây thước và 1 cái búa.
Năm 1971, một
trận hỏa hoạn lớn thiêu hủy nhiều ngôi nhà của học viện và khu vực chung quanh.
Tuy nhiên, như một phép lạ, nguyện đường Loretto vẫn đứng y nguyên, không hề
hấn gì.
Sau hơn 8 giờ
lái xe trong đêm với tốc độ trung bình 120 cây số/giờ, chúng tôi tới ranh giới Texas
và New Mexico khi trời hừng sáng.
Và kìa, trước mặt chúng tôi và hai bên xa lộ 40, trải dài những cánh đồng tuyết
chạy mút tới chân trời. Thảm tuyết bao la phản chiếu ánh mặt trời tạo nên một
phong cảnh kỳ ảo khiến chúng tôi có cảm tưởng như đang đi trên một hành tinh
nào khác trong giải ngân hà. Quả thực, chúng tôi thật may mắn vì mặc dù vào mùa
đông, bầu trời New Mexico lúc này trong sáng với mặt trời trên cao tỏa ánh sáng
dịu hiền, làm ấm lòng khách viễn du, nhưng không đủ sức nóng để làm tan chảy
những cánh đồng tuyết trải dài từ ranh giới Texas tới thành phố Santa Fe.
Chúng tôi tới
nguyện đường Loretto kiến trúc theo kiểu Gothic lúc 4 giờ 30 chiều, đúng vào
ngày đầu năm dương lịch và phải đợi khá lâu mới đến lượt vào bên trong nguyện
đường vì nhiều đoàn hành hương đã tới trước. Có những đoàn từ các tiểu bang
miền Bắc như Minnesota, Michigan,
từ miền Đông như New York, Pennsylvania.
Chúng tôi cũng gặp 1 đoàn người Việt từ California.
Đặc biệt có 2 đoàn, 1 từ Canada
và 1 từ Pháp. Điều này cho thấy 'Cầu thang Thánh Giuse' đã được biết đến khắp
nơi, mỗi năm có khoảng 250 ngàn khách hành hương đến nguyện đường Loretta để
xem cầu thang, và đúng như nữ tu Januarius, Giám đốc học viện Loretto năm 1960,
cho biết du khách từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng cầu thang lạ lùng
này, trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu, nghiên
cứu và nói rằng họ không thể hiểu làm thế nào một chiếc cầu thang như vậy có
thể tồn tại sau gần 1 thế kỷ sử dụng. Quả thực, cầu thang đã thách đố những
phân tích khoa học cũng như khoa kiến trúc và ngành thủ công nghệ.
Bước qua cửa vào
cuối nguyện đường, du khách sẽ lập tức bị thu hút bởi những tác phẩm nghệ
thuật:
-Bàn thờ gỗ được
làm từ bên Ý, chạm trổ bằng tay theo kiểu Gothic, rồi sơn cho giống màu đá cẩm
thạch. Bàn thờ nguyên thuỷ này được đặt trong nguyện đường từ năm 1910 đến nay,
hơn 100 năm vẫn không thay đổi. Phía dưới bàn thờ có khắc nổi hình Bữa Tiệc Ly
của Leonardo da Vinci.
-Trong gian cung
thánh, phía bên phải gần bao lơn, có tượng Thánh Giuse tay trái cầm cây gậy,
tay phải ẵm Chúa Hài Đồng. Cũng trong gian cung thánh, phía bên trái gần bao
lơn, có tượng Đức Mẹ ban ơn đứng trên qủa cầu, chân trái đạp đầu con rắn, chân
phải có chuỗi Mân Côi và dưới đó là các ngôi sao. Cả hai bức tượng đều có kích
thước lớn hơn người bình thường.
-Hai tượng thiên
thần bổn mạng đứng 2 bên phía trên bàn thờ và tượng thiên thần ngồi bưng bình
nước thánh lớn là công trình nghệ thuật của nhóm nghệ nhân M.M. K. Brokaw nổi
tiếng đương thời.
-Tượng Trái Tim
Chúa Giêsu, đặt trên tường phía bên trái, tay trái chỉ Trái Tim Cực Thánh, tay
phải xuôi xuống với bàn tay mở rộng như ban ơn cho những ai đến với Người.
-Chặng đường
Thánh gía hai bên tường biểu lộ nét sinh động của nghệ nhân khi diễn tả được
nỗi bi thương của Chúa và Đức Mẹ cũng như sự tàn ác của 'quân dữ'. Thực ra,
chặng đường Thánh gía là do sáng kiến của thánh Phan-xi-cô từ thế kỷ 13 nhằm
giúp tín hữu, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, sốt sắng nhớ lại hành trình khổ
nạn của Chúa khi vác Thập gía lên đồi Can-vê, nhờ đó những người không biết đọc
cũng có thể trải nghiệm cuộc thương khó của Người.
Khởi đầu, người ta dựng
những cây thánh giá nhỏ bằng gỗ ở những khoảng cách khác nhau và tín hữu dừng
lại mỗi chặng trong khi suy tưởng về quãng đường thập gía Chúa đã đi qua. Sau
cùng, các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã vẽ hoặc tạc nên những cảnh sống động
về chặng đường khỗ nhục cuả Chúa vác Thánh gía lên đồi để chịu đóng đinh. Phải
chính mắt trông thấy những chặng đường Thánh gía tại nguyện đường Loretta,
chúng ta mới thấy tài nghệ tuyệt vời của các nhà đúc tượng khi thực hiện những
tác phẩm nghệ thuật này. Chặng đường Thánh gía Loretta hiện nay là một kho tàng
nghệ thuật vô gía mặc dù được thực hiện từ năm 1800. Tất cả những bức tượng và
chặng đường Thánh gía đều bằng đá cẩm thạch nghiền nát, rồi đổ vào khuôn, nung
trong lò như kỹ thuật làm đồ gốm, sau đó các nghệ nhân tô vẽ bằng tay.
-Kỹ thuật sơn
kính màu tại nguyện đường Loretta đã đạt tới mức hết sức tinh vi, không thua gì
các thánh đường nổi danh bên Âu châu như nhà thờ Fatima Bồ Đào Nha, nhà thờ Thánh
An-tôn Lisbon, nhà thờ chính tòa Burgos, đại thánh đường Thánh I-nha-xi-ô
Loyola Tây Ban Nha, nhà thờ Sacré Coeur, nhà thờ Notre Dame Paris ở Pháp, những
nơi mà tôi có dịp viếng thăm trong chuyến hành hương Fatima-Lộ Đức tháng 10 năm
2011. Kính màu trên vòm cửa cuối nguyện đường vẽ biểu tượng của Chúa Giêsu bằng
2 cây Thánh gía đặt chéo lên nhau với ánh hào quang màu xanh dương. Hai bên
phía dưới là chữ Hi-lạp Alpha và Omega, nói lên Chúa Ki-Tô là khởi đầu và là
sau hết.
Cửa kính tròn sau gác ca đoàn có hình bông hồng lớn, được gọi là 'Rose
window', vẽ chữ M, lồng trên chữ A (Ave Maria), lời chào kính Đức Mẹ Maria vì
khi thành lập Hội Dòng Loretto ngày 25/4/1812 tại Kentucky, các nữ tu đã chọn
Đức Mẹ làm bổn mạng. Ngoài ra, còn 2 kính màu lớn, một vẽ ảnh Thánh Stanislas
ẵm Chúa Hài Nhi, bổn mạng của các tập sinh và các thiếu nữ, một vẽ ảnh Thánh
Catherine thành Alexandra tay ôm cành thiên tuế, bổn mạng các trinh nữ và các
nữ sinh.
Tuy nhiên, đích
điểm của khách hành hương chính là 'CẦU THANG THÁNH GIUSE'. Thật vậy, suốt thời
gian ở trong nguyện đường, lúc nào tôi cũng thấy khách hành hương, hết lớp này
đến lớp khác, chăm chú quan sát cầu thang từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới
lên trên, không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào, rồi bàn tán, thảo luận, và đi
từ ngạc nhiên đến trầm trồ không tiếc lời khen ngợi. Sau đó, nhiều người đến
qùy dưới chân tượng Thánh Giuse cầu nguyện trước khi quyến luyến ra về sau khi
đã chụp hàng chục tấm ảnh, hoặc quay phim làm kỷ niệm.
Cầu thang nằm
sát tường bên phải, phía cuối nguyện đường, có hình xoắn ốc, vòng 2 lần, mỗi
vòng 360 độ, không có cột chịu lực ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu
thang và phần nối với gác ca đoàn.Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực
(law of gravity) khiến các khoa học gia không sao giải thích được.
Kiến trúc sư
Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ
thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông,
nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu và nữ sinh
phải lên xuống cầu thang mỗi ngày một hay nhiều lần để hát phụng vụ. Năm 1959,
cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như
làm bằng xi-măng côt sắt.
Cầu thang có 33
bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian, 2 bên
các bậc thang không có song chắn an toàn khi lên xuống, cũng không có tay vịn.
Một nữ sinh thời gian làm cầu thang mới 13 tuổi, sau vào tu dòng Loretto lấy
tên Mary, kể lại rằng chính cô và các bạn là những người đầu tiên bứơc lên cầu
thang, nhưng vì sợ qúa nên phải bò lên từng bậc, rồi khi xuống, phải cho hai
chân xuống trước, rồi bám bậc phía trên,từ từ trụt xuống.
Chính vì thế, sau 7
năm các nữ tu và nữ sinh phải 'bò lên bò xuống' các bậc thang để lên gác ca
đoàn, Phillip August Hesch, chuyên viên bảo trì nhà thờ chính tòa St. Francis,
được mời tới làm tay vịn và song chắn 2 bên cầu thang cũng như quanh gác ca đoàn.
Điều đặc biệt là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết
các vật liệu với nhau. Ông thợ 'bí mật' đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để
liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.
Cầu thang được
ráp nối bằng 93 tấm gỗ, dài từ 0.9 đến 1.5
m, gồm 10 tấm dùng làm sườn phía ngoài (nên có 9 đường
nối), 8 tấm làm sườn phía trong (7 đường nối), 33 tấm làm bậc thang, 33 tấm kê
giữa 2 bậc thang, phần còn lại dùng làm đoạn vòng dưới chân cầu thang. Kỹ thuật
ráp nối thật lạ lùng và tinh xảo, và như trên đã nói, ông thợ không dùng đinh,
cũng không dùng keo dán, chỉ nối kết bằng những chốt gỗ hình vuông mà thôi.
Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một
trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ
được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong
thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết
điểm nào. Ông Weidner vẫn băn khoăn suy nghĩ là một kỹ thuật tinh vi như thế mà
vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ rất thô sơ, làm thế
nào có thể thực hiện được.
Về gỗ làm cầu
thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ
từ đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất
xứ của nó. Mặt các bậc thang liên tục bị giẵm lên từ khi hoàn thành cách đây
hơn 100 năm, nhưng chỉ mép bậc thang bị mòn đi một chút. Có nhà nghiên cứu cho
đây là một loại thông mà thớ gỗ nằm gần vỏ, người khác thì cho là loại thông
vàng lá dài. Urban Weidner lại khẳng định loại gỗ ít bị mòn này không hề có tại
New Mexico. Việc ông thợ lấy gỗ
từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.
Chuyên gia
Forrest N. Easley, sinh quán New Mexico, tốt nghiệp ưu hạng tại Đại học
Colorado ngành Lâm học và Mộc học, đã từng làm việc cho các cơ quan chính phủ
và Hải quân Hoa Kỳ trong 40 năm, đặc trách nghiên cứu và quản trị ngành gỗ. Với
thành quả và công trình nhiều năm nghiên cứu, ông là chuyên gia về gỗ nổi
tiếng, có uy tín và được mọi người kính nể. Năm 1996, Forrest Easley đã bỏ ra
15 tháng nghiên cứu và phân tích gỗ làm cầu thang Loretto.
Ông lấy một mẩu gỗ
cầu thang đem vào phòng thí nghiệm và dùng kính hiển vi, kính khuếch đại để
quan sát, phân tích tế bào cấu tạo của gỗ. Ông cho biết gỗ có tế bào cấu trúc
hình vuông, không giống bất cứ loại gỗ nào hiện có, và cũng không biết rõ nguồn
gốc từ đâu. Đây là loại gỗ vân sam (spruce) 'có một không hai', vì tất cả các
loại gỗ vân sam khác không bao giờ có cấu trúc tế bào hình vuông. Như vậy, chỉ
có thể phân loại gỗ này vào giữa nhóm Picea sitchensis và Picea engelmanni.
Forrest đề nghị đặt tên khoa học là Pinacae Picea josefìi Easley, còn tên phổ
thông nên gọi là gỗ vân sam Loretto.
Giáo Hội luôn
luôn thận trọng khi đề cập đến những hiện tượng siêu nhiên mà con người không
giải thích được. Cũng trong tinh thần đó, các nữ tu và Giáo quyền tại Santa Fe
không muốn đưa ra một tuyên bố khẳng định nào về chiếc cầu thang lạ lùng này,
chỉ cho đó là sự đáp ứng của Thánh Giuse đối với lời cầu nguyện và sự phó thác
của các nữ tu nơi Thánh Giuse. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nghĩ Thánh Giuse
chính là ông thợ đã làm chiếc cầu thang lạ lùng đó.
Truyền thống tôn
kính Thánh Giuse đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, từ những thế kỷ đầu, thời các
thánh Giáo phụ. Rồi qua các thế kỷ, chúng ta thấy rất nhiều vị thánh đã tỏ ra
lòng sùng kính Thánh Cả Giuse cách đặc biệt.
Tiêu biểu nhất,
thế kỷ 13 có thánh Margaret Cortona, thế kỷ 14 các thánh Bridget Thụy Điển,
thánh Vincent Ferrer, thánh Bernardine Siena. Đặc biệt thế kỷ 16 có thánh
Teresa Avila, nữ tiến sĩ đầu tiên của Hội Thánh, là tông đồ nhiệt thành với
lòng phó thác tuyệt đối vào Thánh Cả Giuse. Bà đã thành lập 17 tu viện và dâng
kính 13 tu viện cho thánh Giuse. Qua kinh nghiệm bản thân của bà về những ơn đã
nhận được từ Thánh Giuse, thánh Teresa quả quyết:"Tôi thấy không lần nào
xin gì cùng Thánh Giuse mà không được. Dường như Thiên Chúa ban cho các Thánh
giúp ta việc này việc nọ. Nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng
ta trong mọi trường hợp. Những ai không tin lời tôi, hãy thử mà xem".
Sang thế kỷ 17,
Mẹ Đáng Kính Maria Agreda, nữ tu Dòng Thánh Phan-xi-cô, trong mọi khó khăn cũng
như nghịch cảnh, lúc nào bà cũng tín thác nơi Thánh Giuse. Trong cuốn sách
Thành Trì Thiên Chúa (La mistica ciudad de Dios), bà viết: "Sự cầu bầu của
Thánh Giuse thực là mạnh thế, để giúp chúng ta giữ đức trong sạch, gỡ mình khỏi
tội lỗi, thêm lòng kính mến Đức Mẹ, được ơn chết lành, khỏi quỷ ma cám dỗ, được
sức khỏe phần xác cùng sự cứu trợ trong mọi hoàn cảnh khó khăn".
Trong thời cận
đại, chúng ta có 2 vị Thánh được coi là Tông đồ nhiệt thành hơn cả của Thánh Cả
Giuse: Thánh Daniele Comboni và Thánh Andre Bessette. Cả hai có chung đặc điểm
là cùng sinh vào thế kỷ 19 và được phong hiển thánh vào thế kỷ 21, nhưng thánh
Daniele qua đời vào thế kỷ 19 và thánh Andre qua đời thế kỷ 20.
1. Thánh Daniele
Comboni là một linh mục truyền giáo tại Phi châu, sau làm Giám mục, được phong
thánh ngày 5/10/2003. Ngài
đã sáng lập Dòng Thừa Sai gồm cả hai ngành nam tu sĩ và nữ tu. Ngay khi khởi
đầu việc truuyền giáo tại Sudan,
Cha Daniele đã phó thác sứ mạng này cho Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trong một cuộc
hành trình bằng lạc đà phải xuyên qua những cánh rừng rậm Phi Châu, Cha bị té
gẫy nát cả bàn tay và cánh tay.
Mặc dù vô cùng đau đớn, Cha Daniele vẫn phải
leo lên lưng lạc đà, băng rừng tới bờ sông Nile để được
đưa bằng thuyền tới tụ điểm truyền giáo. Sau 82 ngày nằm liệt trên giường điều
trị vết thương, Cha trở lại công việc, và ngay lập tức, Cha viết hóa đơn gởi
Thánh Giuse, yêu cầu Ngài phải lấy tiền từ 'ngân hàng Thiên quốc' bồi thường
cho Cha tám mươi hai ngàn quan, nghĩa là mỗi ngày Cha nằm trên giường trị
thương và không dâng Thánh lễ được, Thánh Giuse phải trả cho Cha một ngàn quan.
Rốt cuộc, Thánh Giuse 'đành' phải chi ra số tiền 'khổng lồ' đó. Tiếp theo,
không biết từ đâu đến, Cha Daniele nhận được những số tiền lớn, chẳng những Cha
có thể trả hết những chi phí chuyên chở, chi phí điều hành 2 nhà ở Cairo, 2 học
viện ở Verona và Bắc Ý, thanh toán lương bổng cho nhân viên địa phương và hoàn
tất công việc xây cất ngôi nhà dành cho các nữ tu, gồm nhà ở, trường học và
vườn trẻ. Đúng là Thánh Giuse quá rộng lượng, đã trả cho Cha Daniele cả vốn lẫn
'4 lời'.
2. Thánh Andre
Bassette là Thày trợ sĩ Dòng Thánh Gía. Ngài sinh ngày 9/8/1845 trong một gia
đình lao động gồm 10 anh chị em (2 người mất sớm), mồ côi cha năm lên 9 và mồ
côi mẹ năm lên 12. Thuở nhỏ Ngài ít được đi học, chỉ biết đọc biết viết, và để
mưu sinh, cậu bé Andre suốt 13 năm phải làm nhiều nghề khác nhau: thợ thiếc,
thợ rèn, thợ sửa giầy, thợ làm bánh, v.v. và có thời gian phải sang Hoa Kỳ kiếm
sống. Tuy nhiên, cậu Andre rất có tâm hồn đạo đức. Khi nào có chút giờ rảnh,
cậu đều qùy gối cầu nguyện trước Thánh Gía, và khi có cơ hội, cậu đem Thánh
kinh nói chuyện với bạn bè. Ngoài ra, cậu có lòng kính mến Thánh Giuse đặc
biệt.
Năm 25 tuổi, nhờ
sự giới thiệu của cha xứ và nhất là sự can thiệp của Đức Cha Ignace Bourget,
thanh niên Andre được nhận vào Nhà Tập. Thày Andre khấn trọn đời ngày 2/2/1874
khi 28 tuổi. Trong suốt 40 năm, công việc chính của Thày là gác cổng trường
College de Notre Dame Montreal. Thày thường nói đùa :"khi tôi đến, người
ta chỉ cho tôi cái cổng và tôi ở đó suốt 40 năm". Ngoài công việc chính,
Thày Andre còn làm những việc không tên như lau nhà, lau đèn nhà nguyện, lau
cửa kính, vác củi, chạy thơ, v.v.
Thày cũng được giao nhiệm vụ đi thăm các học
sinh bị bệnh, và cũng nhờ công việc này, không bao lâu, Thày nổi tiếng là
'người làm phép lạ Montreal', có khả năng chữa bệnh nhờ lời xin của Thày với
Thánh Giuse. Khi đến thăm bệnh nhân tại nhà, Thày bảo họ cầu cùng Thánh Giuse
rồi xức dầu Thánh Giuse cho họ (dầu lấy từ cây đèn luôn luôn thắp sáng trước
bàn thờ Thánh Giuse trong nhà nguyện). Thế rồi càng ngày tiếng tăm Thày Andre,
'người làm phép lạ', càng loan truyền khắp nơi khiến hàng ngàn người từ xa kéo
đến, và rất nhiều người được khỏi bệnh nhờ Thầy cầu nguyện với Thánh Giuse. Chỉ
riêng năm 1916 đã có 435 trường hợp được báo cáo khỏi bệnh mà y giới không giải
thích được. Thường ngày Thày Andre phải tiếp khách hành hương từ 8 đến 10 giờ
và mỗi năm Thày nhận khoảng 80 ngàn thơ từ khắp nơi gởi đến xin khấn hoặc xin
những lời chỉ dạy của Thày.
Thày Andre luôn luôn nói với những người đến xin
chữa bệnh: "Tôi chỉ là kẻ quê mùa. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi, chắc chắn
Chúa sẽ chọn người đó thay tôi". Câu nói này làm chúng ta nhớ tới câu nói
của Thánh Bernadette được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ-Đức: tôi là kẻ ngu dốt nhất trong
các người ngu dốt. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi thì Đức Mẹđã chọn người đó rồi.
Các Thánh sao mà khiêm nhường đến thế, chẳng bù cho chúng ta, có người còn cho
mình 'thay trời' (thế thiên) hành đạo. Quả đúng như lời Chúa dạy: ai đưa mình
lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Khi có người được khỏi
bệnh đến cám ơn, Thày Andre trả lời: "Đó là Thánh Giuse chữa. Tôi chỉ là
con chó nhỏ của Ngài mà thôi".
Giấc mơ của
Thánh Andre là xây một đại thánh đường kính Thánh Giuse. Khởi đầu, Thày Andre
quyên góp được số tiền 200 Gia kim và mỗi học sinh trả cho Thày 5 xu tiền hớt
tóc. Năm 1904, Thày làm được một nhà nguyện bằng gỗ dài 5,49m, rộng 4.57m gần
địa điểm Vương cung thánh đường Thánh Giuse hiện nay. Giấc mơ của Thày Andre đã
trở thành hiện thực năm 1924 khi thánh đường Thánh Giuse được xây trên sườn đồi
Mount Royal bên cạnh nhà nguyện nhỏ bé của Thày. Năm 1955 thánh đường hoàn
thành, cao 263 thước, cao nhất thành phố Montreal và được thánh hiến. Mỗi năm
có trên 2 triệu người đến viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse, và nhiều
người đến xin ơn đã được như ý nguyện.
Thày Andre qua
đời năm 1937 lúc 91 tuổi. Hơn một triệu người từ khắp nơi đến kính viếng và đi
qua quan tài của Thày để được nhìn Thầy và vĩnh biệt Thày lần cuối. Thi hài
Thày Andre được an táng trong Vương Cung Thánh Đường mà Thày đã có công khởi
xướng. Thày Andre được ĐGH Gioan-Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 23/5/1982 sau phép lạ ông Carlo
Audino khỏi bệnh ung thư năm 1958 nhờ lời cầu bầu của Thày. Ngày 17/10/2010 Chân phước Andre được ĐGH
Bê-nê-đic-tô thứ 16 tôn phong hiển thánh sau khi phép lạ thứ 2 được công nhận.
Nhân nói đến
thời cận đại, không thể không đề cập đến biến cố vĩ đại ngày 13/10/1917 khi Đức Mẹ hiện ra lần
thứ 6 với ba trẻ tại Fatima và trên bầu trời có Thánh
Giuse, Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ cùng xuất hiện bên cạnh mặt trời. Liền sau đó,
chị Lucia la lên: trông mặt trời kìa! (Regardez le soleil), và trước sự chứng
kiến của khoảng 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa. Từ xưa đến này, ít khi nghe nói
đến việc Thánh Giuse hiện ra, nhưng trong thời cận đại, sự kiện Thánh Giuse
xuất hiện trên bầu trời cùng với Chúa Giêsu và Đức Mẹ có lẽ nhắc nhở chúng ta
rằng Người vẫn luôn luôn quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của mỗi người chúng
ta, và sẵn lòngcầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Trên đây là
truyện các Thánh tôn vinh Thánh Cả Giuse. Đến đây xin độc gỉa lượng thứ cho vì
chỉ muốn chứng minh rằng trong cuộc sống đời thường, nếu chúng ta thành tâm cầu
khẩn Thánh Giuse, Người sẽ nhận lời. Xin được kể hầu qúy vị một kinh nghiệm mới
xảy ra trong gia đình như sau: Tôi có người con gái thứ 3 tên là Trần-Nguyễn
Thiên Hương Lan, gọi bằng tên Mỹ là Mary cho tiện và vắn tắt. Mary tốt nghiệp
Đại học Dược khoa với cấp bằng Doctor of Pharmacy và đã hành nghề dược sĩ hơn
10 năm. Mới đây một bệnh viện trong vùng cần tuyển một dược sĩ có kinh nghiệm
để bào chữa thuốc trị bệnh cho các trẻ em khuyết tật hoặc mắc những bệnh nan y.
Mary muốn nộp đơn xin làm nhưng xem ra tiêu chuẩn rất khó. Tôi đã khuyến khích
Mary và khuyên Mary cầu nguyện cùng Thánh Giuse. Một tuần sau khi phỏng vấn,
Mary nhận được thư từ chối. Mary buồn rầu thông báo cho tôi và nghĩ là chuyện
đã rồi nên tôi không quan tâm nữa. Bất ngờ tuần sau Mary gọi điện thoại báo tin
vừa được bệnh viện cho hẹn đến làm thủ tục nhận việc. Mary cho biết ngay khi
nhận thư từ chối, trong lòng không vui, lại thắc mắc vì sao đã cầu xin Thánh
Giuse mà Người không nhận lời, nên theo đúng lời Mary kể, Mary hỏi Thánh Giuse
TẠI SAO, sau đó 'email' cho bà Giám đốc phòng nhân viên của bệnh viện. Ngay
chiều hôm đó, Mary nhận được hồi báo cho biết đã có sự lầm lẫn, và trong số
những ứng viên đủ tiêu chuẩn, người được chọn chính là Mary. Mary tin rằng
chính Thánh Giuse đã nhận lời cầu xin của mình mà chỉ cho họ nhận ra sự lầm
lẫn.
Để kết thúc bài
viết, xin trích dẫn bài suy ngẫm ngày thứ sáu trong cuốn Tuần cửu nhật kính
Thánh Giuse do nhà sách Trái Tim Đức Mẹ tái bản năm 1993 mà không thấy tên tác
gỉa:
"Muốn biết
thế lực Thánh Cả trên Thiên Đàng ngày nay, không gì bằng nhớ lại công việc
Người đã làm xưa trong Nhà Nazarét. Nơi đây, vì phận sự gia trưởng, Người đã
xếp đặt mọi công việc cho Đức Mẹ và Chúa Con. Ngót ba mươi năm trường, hai Đấng
đã lấy làm hạnh phúc được vâng lời Người trọn vẹn, chẳng lấy chi làm sung sướng
cho bằng làm vừa lòng đẹp ý Người luôn. Ấy là thế lực Người ở trần gian, huống
chi trên Thiên Đàng, quyền uy Người còn lớn gấp bội. Có lẽ nào trên chốn vinh
quang, Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại phai lạt lòng yêu mến đối với Người? Tất nhiên
lời cầu nguyện của Người phải mạnh thế dường nào! Đấng Cứu Thế vừa thấy đôi
tay, suốt ba mươi năm, đã làm lụng vất vả để nuôi Mình, rày chắp lại van xin,
thì cầm lòng sao được mà chẳng mau kíp ban ơn?"
Tháng Thánh Giuse 2012
Trần văn Huyến