Việt Nam nguyện cầu.
Việt Nam buồn thảm.
Việt Nam khởi hoàn.
Việt Nam hy vọng.
Quê hương yêu quí ngàn đời.
Con hãnh diện, con vui sướng.
Con yêu lịch sử vẻ vang.
Con yêu chiến sĩ hào hùng.
Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn.
Núi cao, xương chất cao hơn.
Ðất tuy hẹp, nhưng chí lớn.
Nước tuy nhỏ, nhưng danh vang.
Con trung thành hết nhiệt huyết.
Con xây dựng bằng tim óc.
Buồn nỗi buồn của Dân Tộc.
Một Truyền Thống Việt Nam.
Con phải yêu Tổ Quốc gấp bội.
Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con.
Sôi trào trong huyết quản con.
DHY Phanxicô Xavier Nguyễn Văn ThuậnCây Vông, Nha Trang
Nơi tôi bị quản thúc
Ngày 16 tháng 8, 1975
hôm sau Lễ Đức Mẹ Lên Trời
*
Kính nhớ Ðức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines
Kính nhớ Ðức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Từ trong nhà tù, lợi dụng công việc thợ mộc, Ðức Cha Thuận đã cưa một khúc gỗ làm thành cây Thánh Giá, và dùng giây điện để móc thành một sợi giây chuyền đeo Thánh Giá. |
Roma, Italia (14/09/2007) - Thánh sử Marcô đã viết Phúc Âm, trong chương VIII, kể 'những điều kiện để theo Ðức Giêsu, hầu được vào Nước Trời' như sau: "Rồi Ðức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (34)". Thánh sử Matthêu cũng viết như vậy trong chương XVI, 24. Ðiều nầy cũng được Thánh sử Luca nhắc lại trong chương IX, câu 23. Tại sao là thập giá?
Hai chữ "thập giá" đã gợi lên, cho mọi người thời Chúa Giêsu, một cây khổ giá trần trụi với hình ảnh một người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng.
Thế mà, Ðức Kitô, con Thiên Chúa, đã chọn "thập giá" để hiến thân trọn vẹn, ban chính mạng sống mình đến tận cùng cho đến độ chịu đóng đinh trên thập giá, nơi đó Ngài gánh tất cả tội lỗi của trần gian. Mặc dù "vô tội" (Mt 27, 4), là "người công chính" (1 Pr 3,18), Ngài đã chấp nhận trở nên giống như người tội lỗi.
Ngày nay, "thập giá" tượng trưng cho những gì chúng ta gặp phải trên con đường lữ thứ trần gian. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, ta mới tới được vinh quang như Chúa đã nhận lấy thập giá làm đường đi tới vinh quang. Ðàng sau thập giá là vinh quang, nhưng chỉ khi chúng ta có đức tin mới nhìn biết được.
Ngoài ra, từ khi Chúa Giêsu chọn "thập giá" để chịu đóng đinh vào đó và chết hầu cứu chuộc nhân loại, thập giá đã trở thành Thánh Giá, biểu tượng cho Thiên Chúa giáo.
Nhân dịp lễ giỗ Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng tôi xin có vài dòng kính nhớ vị Mục Tử Việt-Nam đã vác thập giá mình mà theo Thầy Chí Thánh.
I. Linh Mục Của Chúa Kitô.
Ngày 11.06.1953, Thầy Sáu Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã nhận Bí tích Truyền Chức Thánh tại Nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam (Huế) bởi Ðức Cha Gioan Baotixita Urrutia Thi (MEP) và trở thành Linh mục, mang hình ảnh Ðức Kitô.
Ngày 13.04.1967, Cha đã được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI bổ nhiệm Giám mục Chánh tòa Giáo phận Nha Trang, thay thế Ðức Cha Paul Raymond Piquet, MEP. Ngày 24.06.1967, lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, tại Nhà thờ Chính Tòa Huế, Cha đã được thụ phong Giám Mục do Ðức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế. Ðức Cha đã chọn khẩu hiệu "Vui Mừng và Hy Vọng" (Gaudium et Spes), tên của Hiến chế Mục vụ của Công Ðồng Vatican II.
Ngày 10.07.1967, Ðức Cha Thuận đã nhận nhiệm vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang và là Ðức Giám Mục tiên khởi người Việt tại Giáo phận Nha Trang.
Sau cuộc tổng tấn công của quân Miền Bắc và thãm sát tại Huế nhân dịp Tết Mậu thân, ngày 19.03.1968, Lễ kính Thánh Giuse, Ðức Cha Thuận đã khẩn thiết kêu gọi qua Thư luân lưu đầu tiên "Tỉnh Thức và Cầu Nguyện":
- Tỉnh thức để nhận định, để hành động với trí óc, với sức lực của chúng ta: "Là công dân của nước Trời, người công giáo không quên mình cũng là công dân của nước trần thế. Phải quan tâm về cộng đồng chánh trị. Thái độ thoái thác, ỷ lại, dửng dưng ích kỷ trong giai đoạn nầy là đắc tội với Chúa và Tổ Quốc. Bức thông cáo Hội Ðồng Giám Mục trong dịp Tết dể nhắc anh chị em điều đó."
- Cầu nguyện để có Ơn Chúa giúp ta tự cứu thoát.
Linh Mục Phanxicô Thuận thời còn trẻ bồng em gái. |
Ðể tuyên bố năm 1969 là Năm Ðức Tin của Giáo phận, Ðức Giám mục Nha trang đã cho phổ biến Thư luân lưu "Vững Mạnh Trong Ðức Tin, Tiến Lên Trong An Bình", đó là đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công giáo.
Nhân ngày Quốc tế Hòa bình 01.01.1970, Ðức Cha đã công bố Thư luân lưu "Công Lý và Hòa Bình" với lời mở đầu: "Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà anh chị em đều cảm thấy cao đẹp mọi dân tộc đều khao khát."
Phải chăng đây là sự quan phòng của Thiên Chúa để chuẩn bị cho vị Mục tử người Việt trong chức vụ Chủ tịch (24.06.1998) Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình?
Ngày 21.01.2001, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn Ðức Cha Thuận vào Hồng Y Ðoàn.
Lúc 18 giờ ngày 16.09.2002, Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian.
II. Vác Thánh Giá Mình Theo Ðức Kitô.
Ngày 23.04.1975, Ðức Cha Thuận được Ðức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng giám mục phó tổng giáo phận Sàigòn với quyền kế vị.
Ðức Cha đã quyết định đi vào Sàigòn, noi gương Ðức Kitô đã phải đi Giêrusalem, dù Ðức Cha biết những gì mình sẽ phải gặp tại đó như Ngài viết trong "Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá":
"Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Ðức Phaolô VI bổ nhiệm...
Ðêm ấy 07.05.1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Ðức Thánh Cha. Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn..."
Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Ðộc lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Ðức Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sàigòn cùng các Linh mục "yêu nước" (?). Ðối với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Ðế Quốc. Ðể trả lời sự cáo buộc đó, Ðức Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Ngài đối với Bài Sai của Ðức Thánh Cha.
Ngày 15.08.1975, lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Saigòn bắt giam Ðức Cha. Ngài đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23 tháng 11 năm 1988 được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội. Trong thời gian 13 năm ở tù không bản án kết tội, bắt chước Thánh Phaolô, Ðức Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm sống Ðức Tin, Mục vụ, Tu đức. Ðó là ba tập sách:
- Ðường hy vọng (1975);
- Ðường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Cộng Ðồng Vatican II (1979);
- Những người lữ hành trên Ðường Hy Vọng (1980).
Năm 1989, Ðức Cha được phép qua Roma chữa bệnh và được mời làm thành viên Ủy Ban Quốc Tế về Di Trú và Di Dân. Nhà Nước Việt-Nam đã không cho Ngài trở lại Quê Hương.
Ngày 09.04.1994, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức Cha làm Phó chủ tịch Hội đồng giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24.06.1998, Ngài được bổ nhiệm là chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình, thay thế Ðức Hồng Y Roger Etchegaray.
III. Sống Nhờ Ðức Kitô.
Trở thành Tuyên úy trại giam các tù nhân không bản án, Ðức Cha biết mọi người Công giáo cần Mình Ðức Kitô để sống trong những ngày đen tối như Ðức Cha kể:
"Trong Thánh Thể, chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng "hoàn tất" (Ga 19, 30)."
Nhưng làm sao để Thánh Thể hiện diện trong nhà tù?
Ðức Tổng Giám mục Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình đã nói cho Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và những nhân viên Giáo Triều Rôma nhân dịp giảng tĩnh tâm Mùa Chay năm 2000: "Khi bị bắt, tôi phải ra đi tay không, đi ngay lập tức. Ngày hôm sau, tôi được phép viết cho những người thân để xin những thứ cần thiết nhất như áo quần, kem đánh răng,...Tôi viết: "Xin vui lòng gửi cho tôi một chút rượu thuốc để chữa bịnh đường ruột". Các tín hữu hiểu ngay. Họ gửi cho tôi một chai nhỏ đựng rượu lễ, bên ngoài có ghi "Thuốc chữa bịnh đường ruột", còn bánh lễ thì họ giấu trong một ống nhỏ chống ẩm thấp.
Giám thị hỏi tôi:
- Ông bị bịnh đường ruột?
- Phải.
- Ðây, có ít thuốc cho ông đây.
Tôi không bao giờ có thể diễn tả hết hết niềm vui lớn lao của tôi: mỗi ngày, với ba giọt rượu và một giọt nước trên lòng bàn tay, tôi cử hành Thánh Lễ. Và đó cũng là bàn thờ, là nhà thờ chính tòa của tôi! Ðó là liều thuốc đích thực cho linh hồn và thân xác tôi: "thuốc trường sinh bất tử, thuốc giải độc để khỏi chết, nhưng luôn được sống trong Chúa Giêsu", như Thánh Ignatio thành Antiokia đã nói.
Mỗi lần như thế tôi được dịp giang tay và đóng đinh mình vào thập giá với Chúa Giêsu và cùng Ngài uống chén đau khổ nhất. Mỗi ngày, khi đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa tôi và Chúa Giêsu, hòa lẫn Máu Ngài với máu của tôi. Ðó là những Thánh Lễ đẹp nhất trong đời tôi!
Những ngày sau hết với Ðức Thánh Cha John Paul II. |
Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang, tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục.
Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi ngươi phải nằm trong mùng muỗi cá nhân: tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt lấy giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh.
Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống. "Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào" (Ga 10,10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).
Mỗi tuần, sáng thứ sáu có buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày...
Những người tù biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh.
Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Nhà tù trở thành trường dạy giáo lý. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người."
IV. Chọn Ðức Kitô.
Ðức Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, khi còn trẻ tuổi và sức khỏe dồi dào, chẳng những thành công nơi giáo phận Nha Trang mà còn đứng đầu một cơ quan kinh tế có thế lực là Cơ quan Hợp tác Tái thiết Việt Nam.
Nhưng đêm 01-12-1975, cùng với 1,500 bạn tù đói, mệt, chán nản, bị còng tay hai người chung một khóa số 8, bước xuống gầm tàu "Hải Phòng" đậu tại bến Tân cảng gần cầu Xa lộ, để chở ra trại cải tạo Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phú, trong thung lũng núi Tam Ðảo, mùa đông 1976-77 lạnh rét 2 độ C.
Nỗi gian khổ của 9 năm biệt giam một mình với hai người gác, không bạn bè, không có việc làm, tôi ở trong một sự trống rỗng tuyệt đối, đến mức có thể điên đi được. Tôi đi lại suốt ngày trong buồng giam, để vận động cơ thể kẻo nằm luôn thì tôi sẽ chết vì thấp khớp, viêm phổi. Nhiều lúc một mình, tôi bị đau khổ giày vò, tại sao đang lúc mình 48 tuổi, trưởng thành và khỏe mạnh, sau tám năm Giám mục tôi đã có nhiều kinh nghiệm mục vụ, lại phải vào phòng biệt giam, xa giáo phận những 1,700 km?
Một đêm thanh vắng, một tiếng từ đáy lòng nhắc nhở tôi: "Tại sao con quẫn trí, hoang mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa. Những gì con đã làm và tiếp tục làm như kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sĩ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên, mở mang các thí điểm truyền giáo... tất cả những công tác ấy đều là những việc tốt lành, là việc của Chúa, nhưng không phải là Chúa! Nếu Chúa muốn con trao tất cả các việc ấy trong tay Ngài, con hãy làm ngay, và hãy tin tưởng vào Ngài. Chúa có thể làm tốt hơn con muôn nghìn lần; Ngài có thể trao việc của Ngài cho những người tài đức hơn con. Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý Ngài, chứ đừng chọn việc của Chúa!"
Tôi luôn luôn học tập làm theo ý Chúa. Ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh lực mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt qua những bước gian truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi "một sự bình an mà thế gian không cho được".
Theo tính tự nhiên, những lúc chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt động đang hăng say phải bó tay, nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ tầng công tác! Uất ức và chán nản! Tôi tự hỏi: Chúa gọi con "Hãy theo Thầy" hay "Hãy theo việc nọ, người kia?" Ðể đó, Chúa sẽ liệu, Ngài sẽ giải quyết tốt hơn con là cái chắc.
Ở trại Phú Khánh, tôi bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua ba lớp cửa trong một hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống nằm dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi.
Lúc nằm trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và có lần có cả con rết dài; dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá không làm gì được, tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước xuống, thì chúng lại bò ra. Sau này hai linh mục bị giam cách tôi hai lớp cửa, đã thuật lại cho tôi biết: "Một hôm cô Thanh, cấp dưỡng, đã mỡ cửa cho chúng con ra đứng nhìn Ðức Cha nằm dưới đất và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp chết!" Nhưng trong cơn cơ cực này, Chúa đã cứu tôi!
Tôi phải chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi khác.
V. Phó Thác Cho Mẹ Ðức Kitô.
Trong những giây phút bi đát nhất của cuộc đời, bí quyết của Ðức Hồng Y là tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa; sống trọn vẹn giây phút Hiện Tại và nương nhờ vào tình yêu của Mẹ Maria, Ðức Hồng Y đã phó thác tất cả cho Mẹ, để Mẹ dâng lên Chúa người con yêu đang cần đến Ngài. Tâm tình đó đã được Cha lần lượt viết thành sách và diễn tả ra bằng những vần thơ:
"Ðời con dâng hiến Mẹ của con
Giây phút đầu tiên đến Sài Gòn
Cáo gian lắm điều con vì Mẹ
Vu vạ nhiều nỗi Mẹ với con
Sống chết lao tù con có Mẹ
Gian truân chẳng quản Mẹ bên con
Tăm tối đêm trường con theo Mẹ
Băng rừng vượt biển Mẹ dẫn con
Cô quạnh ê chề con kêu Mẹ
Hy vọng trào tràn Mẹ nghe con
Ðau khổ xác hồn con nhìn Mẹ
Âm thầm lễ tế Mẹ dạy con
Muôn vàn thương mến con trao Mẹ
Ức triệu ân tình Mẹ thương con
Sứ mạng tương lai con dâng Mẹ
Khó khăn hiện tại Mẹ giúp con
Âu yếm đêm ngày con yêu Mẹ
Ngày về tin tưởng Mẹ đợi con."
"Con Với Mẹ"
Trại Thanh Liệt, 08.12.1978
Ðoạn Kết
Trong Thánh lễ giỗ Ðức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận lần thứ tư, cử hành sáng hôm 16.09.2006, tại nhà nguyện của Hội đồng, Ðức Hồng Y Renato Martinô, người kế vị Ðức Hồng Y Phanxicô Thuận, trong nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình đã thông báo: Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 đã chấp thuận cho Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đứng ra xúc tiến việc mở án phong chân phước cho Ðức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.
Theo Giáo luật, việc mở án phong chân phước cho một tín hữu chỉ được tiến hành năm năm sau khi qua đời.
Chân Phước (hay Thánh) là những người đã có một cuộc sống Thánh Thiện đã vác thập giá mình mà theo Thầy Chí Thánh, Ðức Kitô, Chúa chúng ta, đã được Giáo Hội điều tra qua các nhân chứng hay các phép lạ.
Chân Phước được tôn kính trong nước và Thánh được tôn kính trên thế giới. Nhờ sự can thiệp của các Vị đó, Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Ðời sống các Thánh và Chân Phước là những gương sáng cho chúng ta noi theo để đáp lời Thiên Chúa mời gọi nên thánh như ý nguyện của chúng ta trong khi lãnh Bí tích Rửa Tội.
Lễ Suy tôn Thánh Giá 14.09.2007
Hà Minh Thảo
Chiếc bánh thứ tư:
Sức mạnh độc nhất của tôi: Phép Thánh Thể
Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình.
(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)
“Trong tù cha có dâng lễ được không?”, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?”
Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v... Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột”. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:
- Ông có bị bịnh đường ruột không?
- Có.
- Đây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!
Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.
Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi.
Đến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Đất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).
Mỗi tuần,sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Đến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.
Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Đêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.
Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp... Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.
Đó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v... hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá... Ta hãy nguyện xin cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”...
Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.
Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.
Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Đối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Đức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).
Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Đây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.
Các bạn trẻ thân mến,
Mời các bạn nghe lời Đức Thánh Cha:
Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau... Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn.
(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)
Cầu Nguyện
Trong giây phút này,
Chúa Giêsu tiếp tục Thánh Lễ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa tiếp tục Thánh Lễ
mỗi giây phút cho đến tận thế.
Chúa sử dụng tay của linh mục
trong phép Thánh Thể khắp địa cầu
cách huyền nhiệm mà thực tại.
Con dâng Thánh Lễ đúng qui thức phụng vụ không đủ.
Ngày xưa Chúa không theo qui luật phụng vụ ngày nay.
Nhưng Chúa dâng lễ với những tâm tình sốt sắng nhất,
những tâm tình trong giờ tử nạn,
nhất là trên Thánh giá.
Đau khổ thể xác, nhất là đau khổ tinh thần.
Yêu mến vâng phục Chúa Cha cho đến chết,
chết sỉ nhục trên Thánh giá,
hình phạt dành cho nô lệ.
Chúa chịu mọi người ruồng bỏ
kể cả Chúa Cha: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con!”
Xin cho chúng con dâng lễ như Chúa.
Nếu chúng con không dâng chính mình,
làm hy lễ toàn thiêu;
Nếu cuộc đời chúng con không chịu đói, chịu khát,
chịu sỉ nhục, chịu nhổ, chịu vả vào mặt,
chịu đội mão gai, chịu vác thánh giá,
chịu đánh đòn, chịu trói, chịu ngã quỵ,
chịu đóng đinh, chịu chết, chôn trong mồ người khác;
thì con phải xét mình, phải sám hối, hoán cải;
phải biến chuyển, lột xác;
vì con chưa tế lễ như Chúa.
Nếu con còn lo sợ,
con kiếm cách tránh né thân phận Chúa,
thì dù con có theo nghi thức nào có long trọng đến đâu
con cũng không tế lễ với tâm tình Chúa.
PX. Nguyễn Văn Thuận
Xem tin tức về việc phái đoàn Roma sắp viếng thăm
Việt Nam tháng 4.2012 để tìm hiểu về Đức cố Hồng Y
Nguyễn văn Thuận, trong tiến trình tuyên phong Á Thánh cho Ngài.
http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/thong-tin-tren-mang/thong-bao-c%E1%BB%A7a-toa-tgm-hu%E1%BA%BF-v%E1%BB%81-ti%E1%BA%BFn-trinh-phong-a-thanh-va-hi%E1%BB%83n-thanh-cho-d%E1%BB%A9c-c%E1%BB%91-h%E1%BB%93ng-y-phanxico-xavie-nguy%E1%BB%85n-van-thu%E1%BA%ADn/
TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI
40 Phố Nhà Chung – Hà Nội
Ngày 06 tháng 01 năm 2012
THÔNG BÁO
Về Tiến Trình Tuyên Phong Á Thánh và Hiển Thánh
Cho Đức Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Kính gửi: Các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân trong Tổng Giáo Phận Hà Nội.
Kính thưa quí cha, tu sĩ và anh chị em,
Như chúng ta đã biết, ngày 22 tháng 10 năm 2010, tại Rôma, theo thỉnh nguyện của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, Giáo Phận Roma đã chính thức mở án phong á thánh và hiển thánh cho Đức Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã là Giám Mục Nha Trang (1967-1975), Tổng Giám Mục Phó Sài Gòn (1975-1994), Phó Chủ Tịch (1994) và Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình (1998). Ngài được vinh thăng Hồng Y năm 2001 và qua đời ngày 16 tháng 9 năm 2002 tại Roma.
Giáo Tỉnh Hà Nội có quan hệ đặc biệt với ngài vì ngài đã sống tại miền Bắc từ năm 1976 cho đến khi sang Roma năm 1991. Tổng Giáo Phận Hà Nội có quan hệ mật thiết với ngài vì ngài đã sống tại nhà xứ Giang Xá từ năm 1978 đến năm 1981 và tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội từ năm 1988 đến năm 1991. Nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân miền Bắc và Tổng Giáo Phận Hà Nội đã có vinh hạnh được sống cạnh ngài, gặp gỡ ngài và biết ngài. Vì thế, sự kiện Tòa Thánh lập án phong thánh cho ngài là niềm vinh dự lớn lao cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, đặc biệt cho Tổng Giáo Phận Hà Nội chúng ta.
Theo quy định của Giáo Hội, để được tuyên phong á thánh và hiển thánh, vị Tôi Tớ Chúa phải được Giáo Hội nhìn nhận là người có danh thơm tiếng tốt về sự thánh thiện và những nhân đức anh hùng. Giáo Hội muốn lắng nghe, tìm hiểu và nghiên cứu những chứng từ của các chứng nhân về Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê.
Trong thời gian qua, Tòa Án Giáo Phận Roma đã cử phái đoàn đến nhiều nước trên thế giới như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Úc châu, để gặp gỡ và lắng nghe các chứng nhân. Nay phái đoàn sẽ đến Việt Nam từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 2012. Phái đoàn sẽ hiện diện ở Hà Nội từ ngày 5 đến 7 tháng 4 năm 2012 để gặp gỡ và lắng nghe những chứng nhân trong Giáo Tỉnh và Tổng Giáo Phận Hà Nội.
Vì vậy, tôi xin tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong Tổng Giáo Phận sốt sắng cầu nguyện để tiến trình tuyên phong á thánh và hiển thánh cho Đức Cố Hồng Y thân yêu của chúng ta sớm được hoàn thành. Ngoài ra, các linh mục, tu sĩ nam nữ, cũng như anh chị em giáo dân nào đã từng biết Đức Cố Hồng Y và muốn làm chứng trước phái đoàn của Tòa Án Giáo Phận Roma về sự thánh thiện và nhân đức của ngài, xin vui lòng viết thành văn bản (có bao gồm số điện thoại và email để liên lạc) và gửi về địa chỉ sau (hạn chót là ngày 15 tháng 3 năm 2012):
Linh mục Tôma Aquinô Nguyễn Xuân Thủy
Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội
40 Phố Nhà Chung, Hà Nội
Email: thomasxuanthuy@yahoo.com
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh mẫu gương và chứng tá anh hùng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã liên kết những đau khổ của mình với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô chịu đóng đinh và trở nên một chứng nhân sáng ngời về sự hiệp nhất, yêu thương và tha thứ, cũng như về công lý và hòa bình.
Xin ngài chuyển cầu cho Tổng Giáo Phận chúng ta luôn bình an, hiệp nhất, bác ái và trung thành làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta thấy ngài sớm được vinh hiển trên bàn thờ.
Trong Chúa Kitô,
+ Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Tổng Giám Mục Hà Nội
Tình yêu thắng được tất cả!
Lữ Giang
Có
thể nói niềm tin, cách suy tư, lối sống và cách hành động của ĐHY
Nguyễn Văn Thuận qua những giai đoạn lịch sử và hoàn cảnh khác nhau đã
biểu hiện cách sống đạo đích thực theo tinh thần Kitô giáo, vì thế hiện
nay Giáo Hội Công Giáo đang lập đề án phong thánh cho ngài. Sau đây là
những nét biểu tượng chính của tinh thần đó nơi ĐHY Nguyễn Văn Thuận.
OMNIA VINCIT AMOR
Những
lời ĐHY Nguyễn Văn Thuận đã viết khi bị quản chế ở Cây Vong đã được
ngài cố gắng thực hiện trong cả cuộc đời mình. Ngài đã kể lại:
“Trong
chuyến hành trình ra Bắc, ba lần tôi đã bị xích chung với một tù nhân
không công giáo, từng là dân biểu và nổi tiếng là Phật Tử cực đoan. Sự
gần gũi trong cùng số phận ấy đã ghi khắc dấu vết sâu đậm nơi trái tim
ông. Sau này tôi được biết rằng sau khi được trả tự do, ông ta hãnh diện
và thích kể lại sự kiện trên đây. Ông đã luôn luôn tìm cách để được
xích chung với tôi và từ đó chúng tôi trở thành bạn với nhau.”
Khi mới đến trại Vĩnh Quang, ngài
cũng đã chinh phục được những cán bộ có nhiệm vụ canh giữ và theo dõi
ngài. Ngài kể lại rằng một hôm trời mưa, đang ngồi bổ củi, ngài đã hỏi
một người canh tù có thể đẽo một cây thánh giá bằng gỗ được không. Anh
ta trả lời rằng luật trại cấm đưa vào bất cứ vật gì mang dấu chỉ tôn
giáo, Ngài trả lời: “Tôi biết, nhưng chúng ta là bạn với nhau.” Anh ta nói: “Sẽ có nguy hiểm cho cả hai chúng ta”. Ngài bảo anh ta cứ lơ đi để cho ngài làm. Anh ta bỏ đi nơi khác. Thế là ngài đã dẽo xong cây thánh giá và
giấu trong cục xà phòng cho đến ngày ra trại.
Trong trường hợp khác, ngài đã xin người canh tù một sợi đây điện. Anh ta hoảng hốt nói: “Tôi đã học ở Đại Học An Ninh rằng nếu một người xin dây điện có nghĩa là muốn tự tử.”
Ngài giải thích cho anh ta rằng ngài là một linh mục công giáo, không
được tự tử. Ngài nói ngài chỉ muốn làm một dây xích nhỏ để đeo cây thánh
giá. Anh ta nói: “Thật khó mà từ chối anh điều gì!” Sau đó anh
ta đem đến cho ngài một sợi điện và hai cái kìm nhỏ. Thế là ngài đã hoàn
thành sợi dây đeo thánh giá một cách dễ dàng.
Một câu chuyện khác đã xẩy ra tại giáo xứ Giang Xá, nơi ngài bị quản chế. Ngài kể lại:
“Khi
tôi bị quản thúc tại làng Giang Xá, cách Hà Hội 20 cây số. Người canh
giữ tôi là một người tín hữu công giáo. Thoạt đầu ông ta đặt bao nhiêu
câu hỏi về tôi: ông giám mục này đã làm gì để bị giam giữ như thế? Khi
sống và ăn chung với tôi, ngủ trong cùng một phòng cạnh tôi, dần dần ông
ta hiểu, và ông để cho tôi viết các sách đạo đức. Ông cho phép các linh
mục đến gặp tôi ban đêm, họ ở cách xa đó 300 cây số, để được nghe tôi
nói về Công Đồng Chung Vatican II, vì không một giám mục nào ở Bắc Việt
đã có thể tham dự Công Đồng...”
Mỗi
tháng, người cán bộ này đều phải làm báo cáo cho công an về các sinh
hoạt của ngài. Nhưng một hôm ông ta nói ông ta không làm báo cáo nữa, vì
ông không biết phải viết gì. Ngài liền nói với ông ta: “Ông cần phải viết. Nếu ông không viết thì ông sẽ bị thay thế. Một người lính canh khác mà tới đây, họ sẽ làm khó tôi.” Ông ta lại nói: “Tôi không biết viết gì cả!”. Ngài nói để ngài viết giúp cho, ông ta chỉ cần chép lại, Ông ta nói: “Tốt lắm!”.
Tháng
đó, công an khen ông ta viết báo cáo tốt và tặng ông ta một chai rượu
cam. Ông đem về và tối đó đưa đến mời ngài cùng uống.
Ngài kết luận: “Omnia vincit amor”.
Tình yêu thắng được tất cả!
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Vào
năm 2000, khi đi khám bệnh, người ta khám phá ra có một màng đang mọc
phủ lên trong thành bụng của ngài. Ngài nói với tôi rằng cuộc khảo sát
cho biết kết quả là “benigne”, tức bướu lành. Tuy nhiên, vào đầu năm
2001, sự phát triển của cái bướu này đã gây khó chịu cho ngài nhiều hơn
và sức khỏe yếu đi. Ngày 17.4.2001, theo đề nghị của Đức Hồng Y Bernard
F. Law, ngài đến một bệnh viện tại Boston, Massachuchetts, Hoa Kỳ, để
cắt cái màng đó đi. Ngàì cho biết ở Ý cũng có một bác sĩ chuyên mổ về
loại biếu này, nhưng ĐHY Law nói ở Mỹ có nhiều phương tiện tối tân hơn,
nên qua Mỹ mổ sẽ
tốt hơn. Ngài đã nhờ ĐHY Law giúp đỡ.
Sau
khi mổ xong khoảng một tuần lễ, ngài đã điện thoại cho tôi biết bác sĩ
chỉ cắt khoảng 2/3 cái màng vì không thể cắt hơn được nữa.
Tôi
có hỏi ý kiến một vài bác sĩ chuyên về ung thư về trường hợp của ngài.
Họ cho rằng đó là trường hợp tuyến tiền liệt của ngài được mỗ vào năm
1988 tại Hà Nội, nay phát triển trở lại và trở thành ung thư. Vì ngài
không chịu đi khám nghiệm thường xuyên để chửa trị, nên bướu đã lan dần
lên thành bụng. Trường hợp này không còn cứu chữa được, ngoại trừ có
phép lạ. Bệnh viện ở Boston có cắt hết rồi bướu cũng mọc lại. Nhưng tôi
không dám nói với ngài.
Đầu
năm 2002, màng bướu tái phát và ăn lan vào ruột. Các bác sĩ Ý cho biết
ngài phải chịu một cuộc giải phẫu kéo dài trong khoảng 30 tiếng đồng hồ
mới có thể cắt bỏ hết và nối lại ruột được.
Ngày
24.4.2002, ngài trở về Úc thăm thân mẫu và mừng tuổi thọ 100 của mẹ
ngài, rồi tiếp tục đi giảng thuyết, sau đó trở lại Roma nghỉ ngơi và
chịu các cuộc thử nghiệm trước khi mổ. Ngày 4.5.2002 ngài đến bệnh viện ở
Milano, phía bắc nước Ý, để chịu giải phẩu.
Lần
chót tôi được nói chuyện với ngài bằng điện thoại hai tiếng đồng hồ là
ngày 4.5.2002, trước khi đi mổ. Lần trước đó vào ngày 26.4.2002, khi
ngài đang ở Úc thăm thân mẫu ngài, ngài cũng đã nói chuyện với tôi suốt
hai tiếng đồng hồ như thế. Hình như ngài đã linh cảm trước rằng ngài có
thể sẽ ra đi trong cuộc giải phẫu này nên đã sẵn sàng tất cả. Sau khi
nói hết những chuyện cần phải nói, ngài dặn tôi: Cố gắng hoàn thành cuốn
sách nói về các biến cố lịch sử Việt Nam trước 30.4.1975 mà tôi đang
biên soạn và nếu cần ngài giúp đỡ gì cứ nói. Tôi hứa với ngài tôi sẽ
hoàn thành càng sớm các tốt.
Cuộc
giải phẫu được thực hiện trong ngày 8.5.2002, nhưng mới kéo dài được 7
tiếng thì sức khỏe của ngài không còn chịu nổi nên cuộc giải phẩu phải
ngưng lại. Các bác sĩ đợi sức khỏe của ngài phục hồi để giải phẫu tiếp,
nhưng chuyện đó đã không xẩy ra.
Trong bài giảng cho Giáo Triều ngày 14.3.2000 về “Bí quyết của sự Thánh Thiện: Sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng”, ngài nói:
“Khi ra khỏi nước, tôi đã nhận được một lá thư của Mẹ Têrêxa ở Calcutta với những lời lẽ sau đây: “Điều đáng kể không phải là số lượng công tác được hoàn thành, nhưng là mức độ tình yêu mà ta để vào trong mỗi công tác”.
Kinh nghiệm đó đã củng cố trong tôi ý niệm là phải sống mỗi ngày, mỗi
phút giây của cuộc đời ta như là phút giây cuối cùng; hãy dẹp bỏ những
gì là phụ thuộc; chỉ tập trung vào những gì là chính yếu. Mỗi chữ, mỗi
cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là những phút giây đẹp
nhất
đời ta. Chúng ta phải thương yêu mọi người, chúng ta phải tươi cười với
mọi người mà đừng đánh mất một giây phút nào”.
Ngày
16-9.2002 ngài đã từ trần lúc 6:30 chiều ngày 16.9.2002 tại Roma, tức
lúc 3:30 sáng ngày 16.9.2002 giờ Los Angeles, California.
Trong thánh lễ an táng Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói:
“Chắc
chắn sự khuất bóng của ngài gây đau buồn cho những ai đã quen biết và
yêu mến ngài: gia đình ngài, cách riêng mẹ ngài, tôi lại bày tỏ cho bà
sự gần gũi yêu thương của tôi. Tôi cũng nghĩ tới Giáo hội Việt nam yêu
quí, Giáo Hội đã sinh ngài trong đức tin, và tôi cũng nghĩ tới toàn thể
dân Việt Nam mà Đức Hồng Y đáng kính đã công khai nhắc tới trong chúc
thư thiêng liêng của ngài bằng cách khẳng định luôn luôn yêu mến. Tòa
Thánh mà ngài đã phục vụ qua những năm cuối đời ngài, than khóc Hồng Y
Nguyễn Văn
Thuận”.
Trong
174 phái đoàn của các quốc gia tới dự đám tang Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận, người ta thấy có hai đại diện của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt
Nam ngồi chung trong phái đoàn của nước Pháp vì giữa Vatican và Hà Nội
chưa có bang giao.
TỰ NHÌN LẠI CUỘC ĐỜI MÌMH
Khi nhìn lại cuộc đời mình, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã mô tả như sau:
“Ngày
hôm nay, vào lúc bế mạc tuần tĩnh tâm, tôi rất xúc động. Cách đây 24
năm, ngày 18 tháng 3 năm 1976, áp lễ thánh Giuse, tôi bị đưa từ nơi quản
thúc ở Cây Vong, đến chỗ biệt giam nghiêm nhặt trong nhà tù Nha Trang,
Phú Khánh.
“Cách
đây 24 năm, tôi không bao giờ ngờ rằng một ngày kia, chính vào ngày
này, tôi kết thúc việc giảng thuyết tuần Tĩnh Tâm tại Vatican.
“Cách
đây 24 năm, khi tôi cử hành thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước
trong lòng bàn tay, tôi không bao giờ tưởng tượng, ngày hôm nay Đức
Thánh Cha tặng cho tôi một chén lễ mạ vàng.
“Cách
đây 24 năm, tôi không hề nghĩ rằng chính hôm nay, lễ thánh cả Giuse năm
2000, Đức Giám Mục kế vị tôi lại thánh hiến chính nơi tôi bị quản thúc
một nhà thờ đẹp nhất dâng kính thánh Giuse tại Việt Nam.
“Cách
đây 24 năm, tôi không bao giờ ngờ rằng ngày hôm nay, khi vừa kết thúc
tuần Tĩnh Tâm, một vị Hồng Y giao cho tôi một món quà lớn để giúp cho
những người nghèo tại giáo xứ ấy.
“Thiên Chúa thật cao cả, và tình thương của ngài cũng cao cả.”
Lữ Giang
Ghi chú: Trích trong cuốn “Vài đòng về ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận” của Lữ Giang phát hành 10.000 cuốn năm 2008.
Tiếp tục cuộc hành trình Lữ Giang
Những chuyện liên hệ đến cuộc đời tù tội của ĐHY Nguyễn Văn Thuận khá dài. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại một số mốc quan trọng trong cuộc hành trình này:
GIAI ĐOẠN BỊ QUẢN CHẾ Ở GIANG XÁ
Vì có tin đồn ở Saigon rằng Đức TGM Nguyễn Văn Thuận đã chết, nên công an và Mặt Trận Tổ Quốc đã tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa ngài và Đức TGM Nguyễn Văn Bình để xóa tan tin đồn này. Đầu tháng 9 năm 1977, Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội báo tin cho ngài biết Đức TGM Nguyễn Văn Bình sẽ đi Roma qua ngã Hà Nội, ngài sẽ được gặp Đức TGM Bình. Ngày 13.9.1977 công an đã đền trại Thanh Liệt chở ngài ra Cục Công An ở Hà Nội gặp Đức TGM Bình. Cuộc gặp gỡ chỉ diễn ra trong khoảng 20 phút và chỉ hỏi thăm nhau về sức khỏe.
Ngày thứ bảy 13.5.1978, vào khoảng 4 giờ chiều, một trung úy công an đến gọi ngài lên văn phòng làm việc. Tại đây, ngài được ông Cục Trưởng Cục Công An tiếp và cho biết ngài được phóng thích, nhưng bị quản chế ở Giang Xá. Ngày 26.5.1978, tức 13 ngày sau, công an đến đưa ngài về Giang Xá.
Giáo xứ Giang Xá là một giáo xứ nằm ở thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức, phía nam Hà Nội. Huyện này trước đây thuộc tỉnh Hà Đông, nay là tỉnh Hà Tây. Giang Xá lúc đó có khoảng 350 giáo dân, thuộc Giáo Phận Hà Nội, nhưng chỉ có Ban Hành Giáo do giáo dân đảm trách, chứ không có linh mục. Ngài bị cấm không được làm các nghi lễ phụng vụ hay giảng dạy cho giáo dân. Tuy nhiên, nhờ thái độ khoan dung và hòa nhã khi nói chuyện, mọi người đã nhận ra rằng ngài không phải là loại ác ôn như công an đã mô tả. Ngài đã chinh phục được cả những cán bộ có trách nhiệm canh giữ ngài cũng như các giáo dân có nhiệm vụ theo dõi ngài.
Ngày 21.11.1988, ngài nhận được lệnh phóng thích của Bộ Nội Vụ, nhưng không được trở về Nha Trang hay Saigon mà bị bắt buộc cư trú ở Tòa TGM Hà Nội.
ĐI VÀO CHỖ CHẾT
Trong thời gian ở Tòa Giám Mục Hà Nội, ngài bị sưng tuyến tiền liệt rất nặng. Kinh nghiệm cho biết, vào bệnh viện chữa trị là một điều rất nguy hiểm đối với hàng giáo sĩ công giáo, nhất là đối với hàng giáo phẩm cao cấp. Trường hợp của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Hòa ở Quy Nhơn và Đức TGM Nguyễn Kim Điền ở bệnh Viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, là những thí dụ điển hình. Các giáo sĩ thường tìm các y sĩ quen biết nhờ chữa trị tại nhà.
Tuy nhiên, vì tình trạng sưng tuyến tiền liệt của ngài đã đến giai đoạn nghiêm trọng, không còn chữa tại nhà được, Tòa Giám Mục Hà Nội đã quyết định đưa ngài vào bệnh viện để xin chữa trị. Tại đây, các bác sĩ khám nghiệm và cho biết trường hợp của ngài phải giải phẫu và cắt bỏ tuyến tiền liệt.
Ngày 24.11.1988 ngài phải trải qua một cuộc giải phẫu dài ba tiếng đồng hồ tại bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Sau khi mổ xong, bác sĩ trưởng khoa chẳng những không cho uống thuốc men gì mà còn cấm các bác sĩ và y tá không ai được chữa trị cho ngài khi không có lệnh của ông. Vì thế, vết thương ở chỗ mổ bị nhiễm trùng, sưng lên rất lớn. Các bác sĩ phải đưa vào mỗ lại lần thứ hai, lấy ra toàn máu đông và mủ. Tuy nhiên, sau khi mổ lại xong, vết thương tiếp tục sưng đến nỗi ngài không còn đi tiểu tiện được, nhưng bác sĩ trưởng khoa cũng như các bác sĩ điều trị vẫn không cho ngài uống một viên thuốc nào. Ngài tưởng sắp chết. Nhưng nhờ một sự giúp đỡ lén lút, ngài được cứu thoát! Cho đến hôm nay, nhà cầm quyền cộng sản cũng không hiểu tại sao ông Nguyễn Văn Thuận đã không chết lúc đó!
Nhìn lại quãng đường này, ngài viết:
“Người ta tưởng tôi đã chết rồi. Dân chúng đã cử hành nhiều lễ cầu hồn cho tôi. Nhưng Thiên Chúa biết viết thẳng trên những đường cong”.
BỊ BUỘC RỜI KHỎI VIỆT NAM
Trong thời gian bị quản chế tại Tòa Giám Mục Hà Nội, Tòa Thánh và Giáo Hội Việt Nam đã tìm một giải pháp để Đức TGM Thuận có thể làm mục vụ tại Việt Nam. Vì biết chính quyền không muốn Đức TGM Thuận trở về Sài Gòn, Tòa Thánh đã đề nghị cho Đức TGM Thuận làm Phó TGM Giáo Phận Hà Nội, nhưng chính quyền không chấp thuận.
Đại Tá Nguyễn Hồng Lâm, nhân vật thứ ba trong Bộ Công An, đã nói với Đức TGM Thuận như sau:
- Vatican không thể bổ nhiệm ông nếu không có sự tham khảo chúng tôi trước. Lần này các vị lãnh đạo Roma đã đi quá xa...
Đại Tá Lâm coi việc đề nghị Đức TGM Thuận làm Phó TGM Hà Nội là một âm mưu còn lớn hơn việc bổ nhiệm ngài làm Phó TGM Sài Gòn vào năm 1975. Đức TGM Thuận đã trả lời:
- Đây là một sự hiểu lầm. Tòa Thánh “chỉ đề nghị” chứ không phải là “bổ nhiệm” tôi...
Đại Tá Lâm nói:
- Ông nói luôn với giọng nhỏ nhẹ, nhưng ông gây cho chúng tôi khá nhiều vấn đề khó khăn giải quyết... Tại sao ông không đi thăm cha mẹ ông? Ông ở đó với các vị một thời gian rồi trở về khi mọi sự đã lắng dịu.
Đức TGM Thuận trả lời:
- Tôi đã đi thăm cha mẹ tôi rồi.
Ông Lâm nói tiếp:
- Vậy thì tại sao ông không đi Roma một thời gian?”
Sau cùng, Đức TGM Thuận trả lời:
- Được, để tôi suy nghĩ.
Khi mọi cuộc thảo luận và dàn xếp bị thất bại, ngày 21.3.1991, Đức TGM Nguyễn Văn Thuận bị trục xuất ra khỏi Việt Nam. Ngài đã đến Thụy Sĩ rồi từ đó xin qua Roma.
Lữ Giang
Ghi chú: Trích trong cuốn “Vài đòng về ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận” của Lữ Giang phát hành 10.000 cuốn năm 2008.