Tin{nl} Honolulu - Ðại Tướng Frederick Weyand, cựu tư lệnh chiến trường cuối {nl}cùng của lực lượng quân đội Hoa Kỳ và Ðồng Minh ở Việt Nam ,vừa qua đời ở{nl} Honolulu ngày thứ tư vừa qua, hưởngthọ 93 tuổi. Tướng Weyand thường {nl}cho báo chí phỏng vấn hay tiếp xúc chứ không tránh né như những vị {nl}tướng lãnh khác. Ông rất cởi mở và nhận định về các cuộc chiến, nhìn {nl}nhận vai trò của báo chí đã ảnh hưởng đến kết quả của cuộc chiến Việt {nl}Nam khi nói đây là một kinh nghiệm ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đối với cá{nl} nhân ông. Ông đã gọi những nhà thương thuyết ở hội nghị Paris là những{nl} kẻ vô đạo đức và vô lương tâm. Họ đã không coi trọng mạng con người {nl}ngoài cái mạng của họ. Ðại Tướng Weyand tham dự 3 cuộc chiến trong 38 {nl}năm binh nghiệp. Ông có mặt ở biên giới Thái Lan, Miến Ðiện hồi Ðệ Nhị {nl}Thế chiến. Ông là tiểu đoàn trưởng ở chiến tranh Triều Tiên.
{nl}
Khi quân đội Hoa Kỳ đổ ào ạt vào Việt Nam năm 1965, ông là tư lệnh{nl} một sư đoàn Bộ Binh. Ông tiên đoán rằng cCuộc chiến Iraq và {nl}Afghanistan sẽ còn ở với chúng ta một thời gian dài trước mặt. Ðối với {nl}cuộc chiến ở Việt Nam và Iraq, ông nhìn thấy ôsức mạnh đáng sợ của báo {nl}chí đã định hướng dư luận và ảnh hưởng đến quyết định thành công hay {nl}thất bại. Ðại Tướng Weyand đã có mặt ở Việt Nam qua 3 giai đoạn gay {nl}cấn, ông là Tư lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, sau đó là tư lệnh tiền phương {nl}nhất là giai đoạn có cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau đó ông được điều {nl}động sang làm thành viên phái đoàn Hoa Kỳ ở hội nghị Paris trong 2 năm. {nl}Ông trở lại Việt Nam để chỉ huy cuộc triệt thoái quân đội Hoa Kỳ và rút{nl} chân khỏi cuộc chiến. Weyand là tướng tư lệnh Hoa Kỳ ở Việt Nam cuối {nl}cùng và cũng là người chết sau cùng. Các tư lệnh tiền nhiệm của ông đã {nl}qua đời trước ông như các ông Creighton Abrams, William Westmoreland và{nl} Paul Harkins. Ông chưa bao giờ bị đả kích trong sự thảm bại của nước {nl}Mỹ tại Việt Nam. Ra đời ở Arbuckle, California, tướng Weyand đã đi qua {nl}chương trình huấn luyện sĩ quan trừ bị ở trường Ðại Học Berkeley, {nl}California.
Ra trường năm 1939 với cấp bậc {nl}thiếu úy, ba năm sau, ông được điều động sang Miến Ðiện khi tướng {nl}Joseph Stillwell huấn luyện quân đội Trung Quốc chống quân Nhật. Ông đã{nl} được thưởng nhiều huy chương, gồm cả huy chương ngôi sao bạc. Ông giải{nl} ngũ nghỉ hưu năm 1976 sau khi làm Tham Mưu Trưởng Liên Quân và về sống {nl} ở Honolulu cho tới khi qua đời. Ông rất thương mến người Việt và thường{nl} cùng với phu nhân xuất hiện trong những buổi sinh hoạt đặc biệt của {nl}cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản tại Honolulu Hawaii.(SBTN)
{nl}{nl}