Võ Đại Tôn: “Sao anh đi mà không bảo gì nhau”?
Ðường về quê hương:
Ðường đời trăm vạn nẻo,
Đâu lối về quê hương?
Giao-Chỉ
Nhân dịp 35 năm nhìn lại con đường, mời quý vị trở lại với thời kỳ đầu thập niên 80 tại San Jose. Những anh bạn trẻ Ðỗ Hùng, Nguyễn Trung Cao và Hồ văn Sinh….. tổ chức đón người khách từ Úc Châu qua. Ông Võ Ðại Tôn đang đi khắp năm châu bốn bể đã ghé lại San Jose hô hào tìm đường Phục Quốc,. Thời kỳ đó không ai nói chuyện đấu tranh chính trị. Không ai nói hòa hợp hòa giải. Tại Hoa Kỳ và Nhật Bản, các tổ chức đang kết hợp để hình thành mặt trận Kháng chiến. Lãnh đạo là vị đề đốc hải quân. Bên Pháp nhiều nhóm cách mạng cũng bàn chuyện ngồi lại với nhau. Trong đó có phi công Mai Văn Hạnh. Thời đó, chống Cộng là phải tìm đường về Ðông Nam Á. Giải phóng quê hương là phải chiến đấu vũ trang.
Ban Thùy Dương cất tiếng hát:
Này em, anh sẽ về bên kia biên giới,
Đèn nhà ai hay đốm lửa quê người.
Võ Ðại Tôn là đóm lửa quê hương về từ Úc Châu. Hoàng Cơ Minh là đốm lửa của Mỹ Châu và Trần Văn Bá là đốm lửa Âu Châu.
San Jose không ai biết nhiều về Võ Ðại Tôn. Một vài người nhắc đến tên thi sĩ Hoàng Phong Linh qua bài thơ “Mẹ Việt Nam ơi!”. Tuy nhiên, với niềm hưng phấn trong không khí phục quốc, San Jose đã đón tiếp ông Võ Ðại Tôn hết sức nồng nhiệt. Tờ San Jose Mercury tường thuật tin tức và hình ảnh trên 1 trang báo lớn.
Sau đó, anh em tiễn đưa người Kinh Kha thời đại lên đường.
Võ Đại Tôn trong
cuộc họp báo Hà Nội, 1982
Bẵng đi 1 năm sau, chợt thấy hình ảnh cuộc họp báo hào hùng của Võ Ðại Tôn tại Hà Nội trên TV toàn thế giới. Lúc đó hải ngoại mới biết tin ông bị bắt, bị tra tấn, rồi ông trá hàng và lừa CS Hà Nội trong một cuộc đấu tranh chính trị đâu ra đấy.
Vào tháng 7 năm 1982, Bắc Cali tổ chức ngày biểu dương tinh thần Võ đại Tôn hết sức rầm rộ. Rồi từ đó không còn tin tức gì nữa.
Người vợ đợi chờ:
Ngay lúc ông Võ Ðại Tôn đến San Jose, khi tửu hậu trà dư, chúng tôi thường tự hỏi ông này gia đình ra sao mà lại bỏ nhà đi khơi khơi như thế. Vợ con ở đâu? Kịp đến khi ông bị bắt, câu hỏi thường tình cũng vẫn đặt ra và không có câu trả lời. Vợ con ra sao?
Nhân dịp gia đình con chúng tôi đổi qua Úc làm việc 2 năm. Con gái sanh cháu đầu lòng. Bà ngoại qua Sydney nuôi cháu. Ông ngoại Giao Chỉ tháp tùng qua cái xứ mệnh danh là miền dưới của địa cầu. Chúng tôi có dịp ghé thăm và tìm hiểu chuyện gia đình của anh chị Võ Ðại Tôn. Lúc đó là vào đầu năm 1990, chị Tôn đã trải qua gần 10 năm đợi chờ bươn trải nuôi con trong cô đơn và gần như tuyệt vọng tin chồng.
Trong gian nhà đơn chiếc, chúng tôi còn thấy tấm hình sơn dầu thật lớn của anh Tôn ngay tại phòng khách. Hỏi thăm chị chuyện gia đình, người vợ trẻ chung thủy với nét mặt xa vắng và dè dặt cho biết rằng vẫn không biết tin tức chính xác của chồng từ lúc anh ra đi. Chị nói rằng vào thời gian 10 năm trước anh vẫn thường đi đó đây rồi lại trở về, Lúc đó vợ con chỉ trông cậy vào mình anh. Gia đình mới định cư ỏ Úc Châu. Con còn nhỏ, vợ không biết lái xe, nhà không có lợi tức gì chắc chắn. Sao anh đi mà không bảo gì nhau?
Chúng tôi ngồi nói chuyện nhưng ai cũng biết rằng làm sao người chồng ra đi như thế mà lại nói thật mọi điều cho vợ. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng chính người đi cũng đang lần dò đường về mịt mù tăm cá. Có gì chắc chắn mà giãi bầy? Ðâu có phải như ngày nay đi máy bay nên biết rõ ngày giờ chia tay và giây phút tái ngộ khi trong tay có sẵn vé khứ hồi.
Chuyện tình Tuyết Mai.
Người vợ trẻ của anh Võ Ðại Tôn sinh ra tại Lào nhưng trưởng thành tại miền Nam. Cô học Văn Khoa rồi sang Luật khoa của đại học Saigon. Ði dạy trung học và làm xướng ngôn viên đài truyền hình số 9 đọc tin thời sự buổi tối.
Bản tin cuối cùng, cô giáo trung học duyên dáng và trẻ trung của TV Việt Nam đã đọc vào đêm 28 tháng 4-1975.
Tuyết Mai của đài số 9 lập gia đình với anh Võ Ðại Tôn năm 1972 khi anh Tôn là Trung Tá Giám Ðốc nha công tác của Bộ Chiêu Hồi.
Sau tháng 4-75 cả 2 vợ chồng tìm đường vượt biên qua Mã Lai trong khi thân phụ của cô ở lại đi tù “cải tạo”. Về sau ông chết trong tù.
Hai vợ chồng vượt biên đã được Mã lai chấp nhận định cư ngay tại thủ đô Kuala Lumpur. Với khả năng Anh ngữ và kinh nghiệm về tình báo, anh Tôn được nhận vào làm tại Bộ quốc phòng Mã Lai. Qua năm 1976 gia đình chính thức xin về định cư tại Úc Châu. Con trai đầu lòng và duy nhất của anh chị sinh ra năm 1978 tại Úc với tên Võ Ðại Nam và lúc nhỏ gọi là Cu Lỳ.Sau này, khi ra đi anh Tôn có để lại cho vợ con quán cà phê Cu Lỳ, bán sách báo và cũng là nơi chiến hữu tới lui, liên lạc. Anh đi một thời gian thì chị cũng dẹp tiệm để tìm công việc vững chắc hơn.
Nhật ký đoạn trường:
*Tháng 2 năm 1981, Võ Ðại Tôn đã ra đi.
*Từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1981, chỉ nhận được vài tin tức từ Bangkok gửi về cho biết là anh Tôn đã vào mật khu kháng chiến Lào Tự Do của Tướng Vang Pao ở Ðông Bắc Thái Lan, sau đó thì bặt tin luôn.
*Cuối năm 1981,Tuyết Mai tập lái xe, xin việc làm ở bưu điện Úc, nuôi con chờ chồng vẫn biền biệt tăm hơi.
*Ngày 13 tháng 7 năm 1982 được điện thoại từ Mỹ của Ông Việt Ðịnh Phương, chủ bút báo Trắng Ðen gọi qua Úc lúc 12 giờ khuya. Báo cho biết là Võ Ðại Tôn đã bị bắt và bị đưa ra họp báo quốc tế tại Hà Nội. Khi nghe điện thoại, nhận tin lần đầu tiên kể từ ngày anh Tôn ra đi, Mai khụyu xuống gần như bất tỉnh. Sau đó cũng không được tin tức gì nữa.
*Tiếp tục sống cô đơn chờ tin của chồng, nuôi con ăn học và đi làm vất vả. Hoàn cảnh sống như góa phụ. Có nhiều đêm đang ôm con ngủ, nghe điện thoại, mừng quá, tưởng rằng có tin tức của chồng. Nhưng đầu giây có khi là tiếng ai đó chửi bới, hoặc tán tỉnh sàm sỡ. Lại âm thầm khóc trong bóng đêm cô đơn.
*Năm 1983 hai mẹ con qua Thụy Sĩ vào văn phòng Liên Hiệp Quốc để vận động nhờ hỏi thăm tin tức của VÐT nhưng cũng không ai biết.
*Năm 1985, một buổi trưa xin sở làm cho nghỉ bệnh, tình cờ bật tivi đài số 7 của truyền hình Úc lên coi, thấy có hình của anh Tôn họp báo ở Hà Nội. Ðài này đang chiếu cuốn phim về “10 năm sau ngày chấm dứt chiến tranh Việt Nam, 1975-1985”.
*Gọi điện thoại ngay vào đài truyền hình số 7, hỏi thăm về cuốn phim tài liệu này và tin tức của Võ Ðại Tôn. Ðài truyền hình cho biết đó là cuốn phim thời sự do phóng viên truyền hình tên là NEIL DAVIS, thực hiện cho NBC, hiện nay Neil ở Bangkok, Thái Lan.
*Tuyết Mai xin nghỉ việc một tuần lễ, bay qua Bangkok tìm gặp NEIL DAVIS. Ký Giả DAVIS đã kể lại việc ông ta tham dư buổi họp báo quốc tế tại Hà Nội của Võ Ðại Tôn, nhưng sau đó thì không biết thân phận Võ Ðại Tôn sẽ ra sao.
NEIL DAVIS có cho Tuyết Mai một copy cuộn phim họp báo đó, và nói rằng thái độ bất khuất của Võ Ðại Tôn đó là sự kiện hi hữu trong đời làm phóng sự của ông ta. (Sau này NEIL DAVIS chết trong một cuộc đảo chánh ở Thái Lan khi đi quay phim). Với cuốn phim, Tuyết Mai có được hình ảnh của chồng qua cuộc họp báo ở Hà Nội, và chỉ biết âm thầm khóc.
*Kể từ ngày VÐT ra đi vào năm 1981 cho đến 1991 là đúng 10 năm dài, TM phải đơn độc đi làm nuôi con và vẫn thủy chung đợi chờ. Không có tin tức sống chết của chồng ra sao. Ði vận động với chính giới Úc Châu, với Quốc Hội Úc, nhưng không ai biết tin tức và các cuộc vận động cũng không có kết quả.
*Ðến tháng 12 năm 1991, bộ Ngoại Giao Úc Ðại Lợi bất ngờ cho biết là Võ Ðại Tôn sẽ được thả về Úc, qua sự vận động của chính giới quốc tế và của Úc Châu. Sững sờ, không tin vì đã quá mỏi mòn chờ đợi. Bộ Ngoại Giao Úc lại nói đây là tin tức nhận được từ Việt Nam. Nhưng cho đến khi nào Võ Ðại Tôn đặt chân lên đất Úc thì mới chắc chắn, vì mọi quyết định từ phía Việt Nam có thể thay đổi vào phút chót.
*Sau cùng, họ lại thông báo thêm, và qua tin tức loan báo của đài phát thanh BBC, VOA, thì Võ Ðại Tôn bị tù đúng 10 năm 1 tháng 17 ngày.Sẽ về đến Sydney vào ngày 11 tháng 12, năm 1991. Ðó là ngày Quốc tế Nhân Quyền.
*Tuyết Mai cùng một số đồng hương đã tụ tập tại phi trường quốc tế Sydney từ sáng sớm 11.12.1991. Nhưng chờ đợi trong hồi hộp đến trưa mới thấy một ông già khẳng khiu từ máy bay bước ra. Ðứa con trai nhỏ ngày nay đã thành một thiếu niên, không nhận ra cha mình.
Ông Võ Đại Tôn sau hơn 10 năm tù trở vê
*Sau hơn 10 năm biền biệt tăm hơi. Tuyết Mai nghẹn ngào không còn nước mắt để khóc khi thấy thân xác nguời chồng tàn tạ thảm thương. Ngày ra đi là một đàn ông trung niên, ngày trở về là một ông già tàn tạ, bước đi không vững. Con không biết cha là ai, vợ thì ngỡ ngàng trước thực tế hình hài, mặc dù trong lòng rộn ràng bao cảm nghĩ thương yêu nhưng vẫn không còn nước mắt để khóc mừng ngày đoàn tụ.
Ðoạn kết của chuyện tình,
đoạn kết của con đường Phục quốc
Khi anh chị Võ Ðại Tôn qua Hoa Kỳ tìm cách định cư thời kỳ 90, chúng tôi có dịp tiếp xúc nhiều lần. Quả thực con đường hội nhập muộn màng của anh chị có khi còn khó khăn hơn cả đường về quê hương thuở trước. Gia đình không có hoàn cảnh hợp lệ để hưởng trợ cấp. Người chiến sĩ phục quốc về già không tìm được công việc thích hợp tại Hoa Kỳ. Cô vợ trẻ đi may thuê gặp toàn chuyện nham nhở buồn phiền.
Giữa một cộng đồng đông đảo, nhiệt thành, tích cực nhưng phân hóa. Không có chỗ đứng cho người anh hùng thấm mệt. Gia đình nhỏ bé của anh chị lại phải từ giã Mỹ Quốc trở về Úc Châu, tìm lại sự thông cảm anh em với chút tình xưa nghĩa cũ. Ðó là những dữ kiện và tin tức của mặt nổi bên ngoài.
Từ bên trong, chiến sĩ Võ Ðại Tôn ngày nay bỏ kiếm cung trở lại với thi sĩ Hoàng Phong Linh, cầm bút viết những vần thơ cảm khái. Còn người vợ. Cô Sinh viên Saigon ngày xưa, cô giáo trẻ dạy trường trung học Long Khánh, cô nữ xướng ngôn viên đài TV số 9 Saigon, ngày nay thực sự cô nghĩ gì? Với tình yêu đầu đời năm 72, qua 3 năm hạnh phúc của đoạn cuối chiến tranh Việt Nam, thoát đi được năm 75 đã là điều may mắn. Những năm đầu định cư, trong khi ai nấy đều lo xây dựng cuộc sống trên quê hương mới thì người chồng còn trăn trở với giấc mơ trở về. “Rồi anh đi mà không bảo gì nhau.”
Vinh quang không thấy và ngày về cũng xa dần, chỉ còn lại những lời ong bướm tán tỉnh suốt năm tháng dài cô đơn mòn mỏi. Rồi thêm vào đó là những tin đồn đau thương đứt ruột từ những trại giam khổ sai bên Việt Nam. Những tiếng thị phi của đồng hương và tin tức đánh phá trên báo chí.
Người chồng yêu quý họ Võ anh hùng đã thành tay Võ đại Bịp. Cả những người bạn cũng gọi anh là kẻ háo danh và ngu đần. Võ đại Tôn trở thành người yêu nước cuối cùng của thế kỷ thứ 20 mang tiếng bạc tình, chạy theo ảo ảnh, không lo cho vợ con. Sau cùng, chung quanh cô vợ trẻ hẩm hiu chỉ còn toàn là những người khôn ngoan, thông minh và hết sức thực tế.
Sau khi anh trở về, chẳng mấy ai còn quan tâm đến vụ họp báo quốc tế làm cộng sản thâm gan tím ruột tại Hà Nội năm 82. Có lá thư gửi đến cho người chiến sĩ trở về đã đang tâm hạ bút viết rằng: “Bác Võ đại Tôn, sao bác không chết đi ?”
Nhưng trải qua bao nhiêu đau thương, bác vẫn còn sống, và người chồng đã trở về. Anh không chết đâu em. Anh về như một phép lạ, dù hình hài tiều tụy. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen. Khi ra đi vẫn không một lời trăn trối.
Nếu khi đi thì phải nhiều năm em mới quen dần với đau thương. Thì ngày về cũng phải có thời gian em mới quen dần với sự vui mừng. Bây giờ đôi vợ chồng xum họp bên nhau gây dựng lại một niềm ước mơ rất nhỏ.
Một gia đình định cư dang dở, một công việc phục quốc dở dang. Chỉ còn cố hàn gắn lại niềm hạnh phúc về chiều.Tháng 4 nghiệt ngã 35 năm sau, năm 2010 gia đình Võ đại Tôn trở lại San Jose và nước Mỹ. Nối lại cái bắt tay muộn màng trong tình chiến hữu lúc hoàng hôn.
Tuyết Mai vẫn mãi mãi là Cô gái Việt và Hoàng Phong Linh vẫn còn là người thi sĩ trẻ một thời đã viết bài ca bất hủ. “Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây… “
© Giao Chỉ
Source: http://www.danchimviet.com
Những người Sơn Tây
Giao Chỉ, San Jose.
Hai mươi dặm về phía tây bắc Hà Nội là đất Sơn Tây, nơi có con sông Đáy, có núi Ba Vì. Cũng tại đất Sơn Tây, cùng thời với chúng tôi có chàng thi sĩ, có anh nhạc sĩ, có vị tướng công và có ông chính khách. Nhà thơ Quang Dũng, người viết nhạc Phạm Đình Chương, thiếu tướng Lê Nguyên Vỹ và chính khách Nguyễn Cao Kỳ. Những nghệ sĩ làm cuộc sống thăng hoa, tướng công làm ta hãnh diện và chính khách làm ta xấu hổ. Họ đều là những người Sơn Tây.
Đôi mắt người Sơn Tây.
Đêm
hôm đó là một buổi tối mà cả phòng trà ai cũng muốn được là người đất
Sơn Tây. Phòng trà Đêm mầu Hồng, Saigon có chương trình ca nhạc phổ thơ
Quang Dũng nên đầy khán giả. Ban hợp ca Thăng Long gần đủ mặt. Hoài
Trung lên nói về thi sĩ Quang Dũng, người cán bộ tuyên huấn của trung
đoàn Tây Tiến, sinh năm 1921 đã có những vần thơ trác tuyệt. Quang Dũng
vốn là nhà thơ của đất Sơn Tây.
Người đã đưa Sơn Tây qua đất Lào, lên Việt Bắc, về Hà Nội, vào Saigon và giờ đây thơ của ông được phổ nhạc gửi đi khắp bốn phương.“Đôi mắt người Sơn Tây, u uẩn chiều luân lạc, buồn viễn xứ khôn khuây”. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 khi phổ nhạc thơ Quang Dũng, cũng nhân danh là người con của Sơn Tây. Quê ngoại.
Tay cầm ly rượu, tay cầm micro Hoài Bắc Phạm Đình Chương hát những bài ông phổ thơ Quang Dũng. Nhạc sĩ hát để tặng cho một người.
Đó là người hùng Sơn Tây, Nguyễn Cao Kỳ cùng với vợ mới cưới ngồi trong số những khán giả hiện diện. Ông đang là tư lệnh không quân, Tư lệnh đi phòng trà, lính gác từ trong ra ngoài. Khán giả may mắn vào được Đêm màu Hồng ngay từ buổi chiều, mê Sơn Tây quá nên ai cũng muốn là người đất Sơn Tây. Khổ cho tôi chưa, lúc đó còn là một sĩ quan vô danh ngồi một góc, tôi cũng ao ước trở thành người hùng đất Sơn Tây như Kỳ. Bụng bảo dạ, thằng cha này chỉ hơn mình có mấy tuổi mà sao ngon lành quá thể.
Cùng lúc đó, giữa biên giới gần Tây Ninh, có một chàng trai Sơn Tây khác, chưa bao giờ nếm mùi trà đình tửu điếm Saigon. Trung tá Lê nguyên Vỹ sinh năm 1933 trung đoàn trưởng bộ binh đang dò bản đồ, gọi máy xem các đơn vị đã vào được vị trí chưa. Đất Sơn Tây, cùng một lúc sinh ra những người con khác biệt biết chừng nào.
Giữa chàng thi sĩ, nhạc sĩ và người chiến sĩ thì anh chàng lãng tử giang hồ Nguyễn cao Kỳ lại là người nổi nhất.
Thiếu Tá Ngọc của San Jose là người thân thiết với ông Kỳ từ ngày ở Hà Nội, rồi đến Saigon và ngay bây giờ tại Hoa Kỳ.
Anh em ngồi bên cạnh Ngọc “Toét” và Hùng “Xùi” thì chuyện ông Kỳ kể hàng năm không hết. Cùng với anh Kỳ, chúng tôi xuất thân là dân Càn khu Chả cá, Hà Nội. Ông Ngọc nói như thế. Bây giờ cuộc sống vô thường. Đời là một sân khấu. Ngọc Toét của tôi buông nhẹ câu triết lý.
Quả thực như thế, cùng khóa tư với Hùng Xùi và Ngô Quang Trưởng lại thân thiết với Nguyễn Cao Kỳ mà khi qua Mỹ ông Ngọc vẫn giữ lon thiếu tá, cũng là chuyện lạ.
Quả thực cuộc đời là một hý trường, dù hay dù dở, dù xấu dù tốt, Kỳ vẫn luôn luôn là một ngôi sao sáng lên mọc từ đất Sơn Tây.
Sinh năm 1930 thuở nhỏ theo kháng chiến rồi về Thành. Động viên vào lớp sĩ quan Nam Định, sang Pháp học bay. Về nước ông lần lượt bước dần lên bực thang danh vọng. Giữa cơn binh biến từ 63 đến 65, Nguyễn Cao Kỳ trở thành người hùng trong quân đội với chức tư lệnh không quân VNCH. Từ 65 đến 67. Từ giã quân đội, Nguyễn Cao Kỳ trở thành thủ tướng và sau cùng là phó tổng thống của đệ nhị Cộng Hòa.
Sau 4 năm của nhiệm kỳ đầu, bị ông Thiệu bỏ rơi, Kỳ về làm nông trại tại Khánh Dương. Cùng thời đó ngoài Bắc thi sĩ Quang Dũng đất Sơn Tây đã chịu biết bao nhiêu trầm luân gian khổ từ sau vụ Nhân văn Giai phẩm.
Tháng 4-1975 người chiến sĩ xuất thân đất Sơn Tây là thiếu tướng Lê nguyên Vỹ tự tử tại tổng hành dinh Sư đoàn 5 Bộ binh. Bài vị được đem về thờ tại làng cũ đất Sơn Tây ghi danh là tư lệnh binh đoàn Lai Khê. Khi Sài Gòn có lệnh đầu hàng, ông bình tĩnh ăn ba chén cơm. Nói anh em liệu tìm đường thoát thân. Trung tá Đỗ đình Vượng còn nhìn thấy nụ cười của tư lệnh trước khi ông quay vào phòng nổ súng.
Còn người hùng không quân đất Sơn Tây nói chuyện quyết tâm chiến đấu cứ như đinh đóng cột tại trường Chỉ huy Tham mưu Long Bình. Anh em sĩ quan cao cấp trong khóa học lòng dạ đang tan nát vì gia đình bị kẹt ở miền Trung, bỗng tưởng như thấy lại trời xanh. Ông Kỳ lại tiếp tục hô hào thêm một lần nữa tại họ đạo Tân sa Châu. Dân di cư công giáo nghĩ rằng phen này gặp được người anh hùng xoay lại thời thế.
Nhưng sau cùng, nhạc sĩ Phạm đình Chương và thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ cùng sống những ngày còn lại tại Hoa Kỳ. Nhạc sĩ tiếp tục phổ thơ, những tác phẩm bất hủ kể lể nỗi niềm về Đêm nhớ Trăng Saigon.
Ông thiếu tướng cũng di tản kịp thời qua Mỹ và tiếp tục là người tạo tin tức thời sự trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Những chàng trai đất Sơn Tây lần lượt ra đi. Từ chiến sĩ Lê nguyên Vỹ tự sát 1975 trong Nam, thi sĩ Quang Dũng chết trong hiu quạnh 1988 ngoài Bắc, đến nhạc sĩ Phạm đình Chương qua đời trong thương tiếc năm 1991 tại Hoa Kỳ. Bây giờ đến lượt nhà chính khách ồn ào Nguyễn cao Kỳ người đất Sơn Tây ra đi sau cùng 2011
Định mệnh đã có những cơ duyên lạ lùng. Người đất Sơn Tây chết tại Hà Nội, chết tại Saigon, chết tại Hoa Kỳ. Riêng mình ông sống không giống ai, đến khi ông chết tang lễ cử hành tại Mã Lai.
Tờ New York Time số vừa qua viết về ông cựu phó tổng thống miền Nam có thể được coi là phản ảnh dư luận Mỹ.
Ký giả Mỹ viết rằng từ một tay chơi ông Kỳ trở thành tư lệnh không quân miền Nam và thủ tướng tại Saigon thời kỳ 65-67.
Cháu của ông là Peter Phan nói với AP là ông Kỳ qua đời tuần vừa qua tại Kuala Lumpur, Mã lai hưởng thọ 81 tuổi. Dựa theo hồi ký của chính ông Kỳ, báo Mỹ viết rằng Kỳ đã từng phục vụ cho cộng sản và quân đội thực dân Pháp. Trên thực tế thời toàn quốc kháng chiến ông Kỳ mới là một thiếu niên cho đến khi trưởng thành bị động viên vào khóa sĩ quan tại Nam Định. Tuổi trẻ chưa hề có ý niệm gì về quốc cộng và hoàn toàn bị lôi cuốn vào dòng đời theo hoàn cảnh.
Dưới mắt báo chí Hoa Kỳ, vị thủ tướng Việt Nam một thời đóng vai chính khách huê dạng, ông làm chính trường thành kịch trường và tự biến mình thành một kép hát. Cả 2 vợ chồng đều mặc đồ bay, áo liền quần màu đen, khăn tím, kính dâm, tóc dài. Tướng Kỳ đeo súng lục xệ bên hông.
Trong sách Stanley Karnow tả ông Kỳ như là một tay thổi kèn saxophone ở hộp đêm hạng nhì. Chính ông Kỳ cũng nhắc lại như vậy. Ông tự xưng là con Phật đứng lên chiến đấu để cứu Việt Nam.
Thời kỳ ông thủ tướng “cao bồi” của Việt Nam cầm quyền, đến dự lễ duyệt binh với phu nhân Tuyết Mai. Cả khán đài quan khách Việt-Mỹ đứng lên đón chào theo lời của xướng ngôn viên buổi lễ. Anh hùng và giai nhân cặp kè như các diễn viên trên sân khấu. Quan khách ngoại quốc và ngoại giao đoàn mở to mắt nhìn hoạt cảnh có một không hai trên chính trường miền Nam.
Đứng bên cạnh khán đài, đại úy tùy viên của tướng Westermoreland nói nhỏ với tôi. Ông Kỳ là chủ nhân của Saigon hoa lệ và cũng là chủ nhân của bông hoa đẹp nhất Saigon. Tôi cũng không biết là anh này nói thực lòng hay mỉa mai.
Không ngồi trên khán đài, đại tá Loan, xếp xòng an ninh của ông Kỳ chân đi dép, áo trận bỏ ngoài quần, đầu không đội mũ, bên hông đeo súng lục, lẹp xẹp đi tới đi lui, đích thân kiểm soát an ninh tại khán đài.
Với những hình ảnh đó, Hà Nội luôn luôn tuyên truyền rằng chính phủ miền Nam là bù nhìn của Mỹ, và là những con rối tệ hại nhất.
Danh tiếng kỳ cục.
Cuộc đời của ông Kỳ là một chuỗi dài những tin tức, những danh tiếng ồn ào và kỳ cục. Ông là tay ăn chơi ngông nghênh nhất hạng. Lấy vợ, bỏ vợ, rồi lấy vợ, rồi bỏ vợ. Một thời nổi danh là Lady Killer. Ông theo Mỹ rồi chống Mỹ. Ông quyết liệt chống cộng rồi lại lên tiếng bênh vực chính quyền Hà Nội.
Ông từ chối ra đi, kêu gọi mọi người ở lại chiến đấu, nhưng sau cùng ông lại ra đi.
Ông tham gia các phong trào vận động phục quốc, nhưng đánh trống bỏ dùi, ông quay lại hô hào hòa giải dân tộc. Ông có khả năng hùng biện và luôn luôn nói lời tâm huyết, vì nước vì dân. Ông tự coi là người yêu nước chân thực và nồng nàn. Nhưng thực sự Nguyễn cao Kỳ không hề yêu ai cả. Ông chỉ yêu có Nguyễn cao Kỳ.Từ trong nước ra đến hải ngoại, trong hay ngoài quân đội, trước hay sau 75, ông luôn leo lên đầu lên cổ anh em để múa gậy vườn hoang. Ông dậy dỗ hải ngoại đoàn kết dân tộc. Ông dậy dỗ trong nước chống Mỹ, chống Tàu.
Từ khi xuất thân là dân càn Hà Nội, cậu Kỳ chỉ muốn chơi trội. Cậu chỉ muốn suốt đời là cái đinh của vũ trụ, cái rốn của địa cầu. Dù trái hay phải, dù xấu hay tốt, dù suôi chiều hay ngược lối, dù lẫm liệt hay cúi đầu nhục nhã, dù đóng vai chính nhân hay phản diện, luôn luôn cậu phải là ngôi sao sáng của chính trường. Cậu là con cầu tự. Con Trời con Phật. Thiên hạ phải đứng chung quanh vỗ tay.
Nhưng đau thương là ở phần chúng ta, bởi vì chúng ta không phải là khán giả của một vở kịch đời, xem qua rồi bỏ. Chúng ta là dân của một nước đã mất vì người lãnh đạo một thời được so sánh với anh thổi kèn saxophone cho một phòng trà hạng bét. Người ta nói rằng, dân tộc thời nào thì có lãnh đạo thời đó. Khổ thân tôi chưa. Tôi lại chính là người dân Việt Nam của thời kỳ đó.
Bây giờ còn biết nói năng chi.
Dù hết sức kính trọng tướng Lê Nguyên Vỹ, dù cảm phục tài hoa thi sĩ Quang Dũng, dù rất say mê nhạc Phạm Đình Chương, nhưng tôi không còn tha thiết ước mong là người Sơn Tây như thủa xưa ngồi ở Đêm Mầu Hồng. Ước mơ gì kỳ cục. Tôi xin trở về làm dân Nam Định hiền lành như mọi người.
Ngưòi chính khách cuối cùng đã đi rồi, đem theo cả tiếng bấc tiếng chì. Dân Càn chả cá Hà Nội bây giờ chẳng còn ai. Ngọc Ghẻ chết từ khuya, chỉ còn bác Ngọc Toét ngồi cười ruồi với bác Hùng Xùi ở San Jose. Hai bác đang bàn nhau suôi Nam đón tro cốt anh Kỳ.
Nghĩa tử vẫn là nghĩa sau cùng.
Giao Chỉ,
San Jose.