Translate this page: English French German Spanish Vietnam
Lê Thị Huệ phỏng vấn nhà hoạt động Thi Vũ Võ Văn Ái
http://daiphatgiao.free.fr/
Nghe chương trình Radio Phật Giáo của
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế


Phỏng vấn ông Thi Vũ Võ Văn Ái

nhà đấu tranh, nhà văn hóa,
nhà báo, nhà thơ, thiền sư


lê thị huệ,
chủ biên gio-o.com thực hiện
 
(bấm vào đây đọc phần 1- câu hỏi  từ 1 tới 9)
(bấm vào đây đọc phần 2 – câu hỏi từ  10 tới 20 )
(bấm vào đây đọc phần 3 – câu hỏi từ  21 tới 29 )
(bấm vào đây đọc phần 4 – câu hỏi từ  30 tới 42 )
(bấm vào đây đọc phần 5 – câu hỏi từ  43 tới 56 hết )
 

Xem trọn vẹn bài phỏng vấn
và các tài liệu hình ảnh ở đây
 http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi5.htm

(bài trích)

10. Lê Thị Huệ: Tại sao ông đã không tranh đấu cho Việt Nam nói chung. Tại sao ông đã chọn đứng về phía tranh đấu cho Phật Giáo ?

Võ Văn Ái :  Vừa là công dân Việt vừa là Phật tử, tôi không thấy sự xung khắc giữa Phật giáo và Việt Nam. Tôi không nghĩ khi tham gia thế sự, các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, các Cư sĩ Phật giáo Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi… họ phải chọn lựa giữa Việt Nam và Phật giáo.

Không đâu, trọng tâm tham gia của người Phật tử cốt bảo vệ Con Người và Đất nước với hành trang tư tưởng nhân đạo nhất, là giáo lý đạo Phật, một tôn giáo hòa bình chưa hề gây thánh chiến với bất cứ ai hay tôn giáo nào.

Có lẽ tôi cần khai triển đôi chút để chị nắm bắt thời cuộc đẩy đưa tôi vào hiện trạng hôm nay khiến chị phải hỏi “Tại sao…”.

Tôi đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở nước ngoài từ 1963 đến 1970. Sau đấy tôi từ chức, đi làm nhà in và nhà xuất bản tại Paris.

Khi bộ đội Bắc Việt xâm chiếm miền Nam ngày 30.4.1975, tôi cùng một số bạn ở Paris thành lập Cơ sở Quê Mẹ vào tháng 10.1975 và cho ấn hành Tạp chí Quê Mẹ, số đầu tiên ra mắt ngày 1.2.1976 vào dịp Tết Bính Thìn. Tiêu điểm của tạp chí thu gọn trong câu viết : “Như chim hồng chim hạc. Dù lưu lạc mười phương, chúng ta vẫn bay mãi trên vùng trời quê hương. Đuôi xoè đoá sen, lưng chở núi, lòng ôm mặt trời, đôi mắt trừng trừng nhìn hư không xanh, và đôi cánh lộng làm rơi rụng nghìn dặm cách chia”.

Quê Mẹ













Tạp chí Quê Mẹ là một trong những tạp chí ra đời rất sớm sau ngày tang thương 30.4.1075. Bây giờ chẳng ai còn sợ hãi, nhưng thời ấy, có thể nói Quê Mẹ là tạp chí hiếm hoi dám đề tên thật người chủ biên, thay vì bút hiệu, và đề địa chỉ thật thay vì hộp thư. Sự kiện này nay chẳng quan trọng gì, hay người ta đã quên, song đối với nhà nghiên cứu xã hội học, yếu tố này bộc lộ trạng thái hoang mang, sợ hãi, mất định hướng của tập thể người Việt thời bấy giờ.

Dù tôi là người xướng xuất và điều hành, nhưng Cơ sở Quê Mẹ không dựa vào hay đại biểu cho Phật giáo hoặc đảng phái nào. Tiêu đích anh em chúng tôi lúc bấy giờ là Văn hóa Việt và Nhân quyền. Bảo vệ nền văn hóa Việt đang bị nền văn hóa Mác xít uy hiếp, và bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam trước chủ thuyết không-có-con-người của Cộng sản. Không dựa vào đảng phái vì tôi chưa từng theo đảng nào. Là Phật tử nhưng không muốn nhân danh Phật giáo vì tôi nghĩ thời điểm 75 là thời điểm kết liên dân tộc trước quốc nạn chung. Mỗi người cần gạt qua bên quá khứ tự thân để có động thủ mới cho quê hương.

 Sau 7 năm cộng tác hoạt động mật thiết ngày đêm với 13 hội đoàn tại Paris và Pháp, rồi sau đấy, 10 năm đi du thuyết, tiếp cận với một số hội đoàn người Việt trên thế giới, tôi nhận xét điểm ưu của người Việt hải ngoại là tấm lòng cố quốc và ý chí chống Cộng. Nhưng điểm khuyết là sự chia rẽ, phân hóa, kỳ thị vùng miền, tôn giáo, thờ ơ với xu thế toàn cầu dù sống trên địa bàn thế giới.

Sinh hoạt chung thường nệ ngôn từ, tiểu tiết hơn là nội dung và thực chất. Nặng nhất là tinh thần đảng tranh, một hậu quả lịch sử từ năm 1945. Thoạt đầu là đảng tranh Quốc-Cộng, sau thành Quốc-Quốc. Vì vậy trên đấu trường, chỉ thấy “quân ta thắng quân mình”, bỏ ngỏ cho địch hoành hành. Điểm bất lợi khác, một số các đoàn thể không có đường lối chiến lược. Chống Cộng nhưng không Vượt Cộng.

Vì vậy, cứ ở lì nơi thế phản ứng, chưa có động thủ chủ động. Vô hình trung giúp đối phương tranh thủ thời gian xâm lấn, nằm vùng, tạo ly gián. Đáng buồn là trong tư thế ấy những phong trào Chống Cộng đang viện trợ “thời gian” cho Cộng sản đứng vững. Chống mà lại thành ra liên minh ! Mâu thuẫn hết chỗ nói.

Nhận định như trên tôi thấy sự mắc cạn của một số tổ chức chống Cộng. Chống cho thỏa tấm lòng ấm ức hoặc thù hận, mong tìm lại cảnh vàng son thưở trước (sẽ chẳng bao giờ có lại). Nhưng mất liên hệ máu thịt với xu thế thế giới, đặc biệt với đại khối quần chúng trong nước đang ngày càng khổ ách, nhưng đồng thời cũng ngày càng vượt khỏi tầm nhìn hay ước vọng của người hải ngoại.

Thế có nghĩa là, không kể trước kia hồi còn bé tới thời trung niên, tôi hoạt động thuần túy cho Việt Nam từ 1975 đến 1992.

Sang năm 1992 có sự kiện Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch ở Huế. Trường hợp ngài khá đặc biệt. Do Hòa thượng là người đạo cao đức trọng, uy tín lớn trong quần chúng Phật giáo miền Trung. Nên Mậu Thân Huế năm 1968, Việt Cộng đến chùa Linh Mụ bắt ngài đưa lên núi nhắm mục tiêu vận động quần chúng Phật giáo vốn chống Cộng sản. Lúc ấy ngài bị xuất huyết dạ dày nặng, mặc chư Tăng chùa Linh Mụ phản đối, Việt Cộng đặt ngài vào thúng gánh đi.

Tôi có cuốn băng ghi âm trên hai giờ đồng hồ ngài kể từ giai đoạn Mậu Thân Huế cho đến thời về lại Miền Nam sau 75 và cực lực chống đối nhà nước cộng sản. Không như gần đây vì lý do “đảng tranh chính trị”, một số người bá vơ viết bài, viết sách tố cáo ngài và giới Tăng lữ ở Huế theo Cộng sản. Bọn người này chưa bao giờ chịu ghé mắt đọc các tài liệu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và CIA giải mật từ 2005 đến đầu năm nay, 2009. Đọc xong bọn họ sẽ phải hỗ thẹn về tính cách bất lương trong kiểu viết lách vu họa và dối gạt.

Ra đến Bắc vai trò ngài mờ nhạt, Hà Nội dùng ngài như bình phong Phật giáo cho cuộc tuyên truyền quốc tế không mấy thành công. Cuối năm 1969 nhân được Hoàng thân Sihanouk mời thăm Cam Bốt, tôi có dịp hỏi thăm về ngài khi gặp ông Nguyễn Văn Hiếu, Đại sứ của Mặt trận Giải phóng tại Nam Vang. Ông Hiếu đã rất ấp úng về trường hợp của ngài và tỏ vẻ lạnh nhạt với Phật giáo. Người Cộng sản rất tự đắc, tự kiêu ngay cả khi họ chưa thắng lợi.

Sau 1975 trở về Nam, Hòa thượng Thích Đôn Hậu là người chống đối Cộng sản đầu tiên trong lớp người ở Bắc về. Đến như hàng giáo phẩm lãnh đạo Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, cũng hồ nghi ngài theo Cộng sản. Nhưng sau 8 năm xa cách, ngài có buổi họp đầu tiên để trình bày ý kiến trước tình hình mới với Viện Hóa Đạo ở Saigon năm 1976. Sau buổi họp, cố Hòa thượng Thích Thiện Minh đã kết luận khá hình tượng là “Tưởng Hòa thượng mặc áo đỏ, nào ngờ lòng ông vẫn vàng. Đi lâu mới biết đường dài / Ở lâu mới biết con người thủy chung”.

Tại buổi họp này ngài đã có những cố vấn rất thực tiễn và khôn ngoan giúp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đối phó với nan đề Cộng sản. Câu ẩn ngữ của ngài mà tôi tâm đắc là : “Chúng ta cố gắng xiển dương chánh pháp. Gặp thời chúng ta có thể giảng diễn trước hàng vạn người, hàng ngàn người, trăm người. Còn khi không thể nào thể hiện sự giảng diễn đó, chúng ta giảng cho 5 người, cho 10 người. Nhiều lần, nhiều chỗ giảng như vậy, thành ra đông đúc”.

Ngay năm 1976, trong cuộc hội kiến với ông Phạm Văn Đồng hay tại khóa họp Quốc hội kỳ 2 ở Hà Nội, Hòa thượng Đôn Hậu đã phê phán chính sách đàn áp Phật giáo và nhân quyền tại miền Nam, và phản ứng thái độ trịch thượng của tướng Võ Nguyên Giáp, mà Hòa thượng nói rằng “Nếu không nghĩ mình là Thầy tu, thì cái ghế của tôi sẽ phang lên đầu ông Võ Nguyên Giáp.  Đặc biệt ngài tố cáo bàn tay Cộng sản giết Hòa thượng Thích Thiện Minh, đòi đưa ra ánh sáng công lý. Hòa thượng nói thẳng với Cộng sản về dân tình miền Nam rằng : “Tình hình đoàn kết, thương yêu, kính trọng (của dân miền Nam) chỉ được 10 ngày (sau khi Cộng sản vào Nam). Sau 10 ngày đó : Tình đoàn kết xưa nay bây giờ rã hết. Lòng yêu thương đổi thành ghét cay ghét đắng ! Sự kính trọng bây giờ  người dân trở lại khinh đáo để !”.

Kể từ đó Hòa thượng Thích Đôn Hậu từ bỏ tất cả mọi chức vụ bị gán kết như Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Mặt trận Tổ quốc, kể cả các chức vụ “bị” đề cử vào Giáo hội Phật giáo Nhà Nước, để chuyên lo cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong chức vụ mới, Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.

Trong cuộc vận động bầu cử quốc hội ở Thừa thiên - Huế giữa năm 1976, Mặt trận Tổ quốc và Ban Dân vận mở các cuộc họp khu phố, phường khóm vận động dân chúng đừng bầu cho Hòa thượng Thích Đôn Hậu với ba lý do mà chủ tọa đoàn của Cộng sản công bố trước quần chúng : 1. “Bầu mấy ông già mệt lắm. Già thì chết thôi, mất công bầu lại người khác ; 2. Ông Đôn Hậu thấy cũng có tranh đấu, nhưng ông tranh đấu cho Phật giáo, chứ đâu phải cho dân tộc ? ; 3. Ôn Đôn Hậu cũng có đi với cách mạng, nhưng mà Ôn bị bắt chớ đâu phải Ôn tình nguyện đi ! Cần nói ngay ở đây, là Hòa thượng Đôn Hậu khước từ ra ứng cử và yêu cầu trở về cương vị tu sĩ, nhưng bị nhà cầm quyền Cộng sản bó buộc. Ông Nguyễn Hữu Thọ đích thân đến gặp riêng Hòa thượng Đôn Hậu khẩn nài : “Tôi xin thay mặt Chính phủ Lâm thời, và riêng tôi, yêu cầu bác đóng góp”.

Thời ấy, cũng như thời Mậu Thân 1968, Cộng sản cần một biểu tượng Phật giáo làm bình phong. Vì đối ngoại, Nhà nước Cộng sản cần có khuôn mặt Phật giáo để mang sắc thái chính quyền nhân dân, đối nội thì để chinh phục giới Phật tử chống Cộng. Vì vậy mà mời mọc Hòa thượng ra ứng cử, nhưng mặt khác giảm giá Hòa thượng tại địa phương để đàn hặc quần chúng Phật giáo.

Tôi biết Hòa thượng từ hồi ở Huế giữa thập niên 40. Sang thập niên 50 tôi bỉnh bút cho nguyệt san Liên Hoa, cơ quan ngôn luận của Tăng già miền Trung, do ngài làm Chủ nhiệm. Nên sau này càng ngưỡng phục nhân cách Hòa thượng Đôn Hậu qua hai hành xử rất dân tộc và Phật giáo.

Thời Pháp chiếm lại Huế giữa thập niên 40, quân đội Pháp bắt ngài và định giết. Trong ba ngày chúng bắt ngài đào hố để xứ bắn. Ngài ung dung và trầm tĩnh vừa đào đất vừa tụng chú Đại Bi. Nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) can thiệp nên ngài không bị giết và được trả tự do. Hành xử thứ hai tại Hà Nội năm 1969 khi ông Hồ mất. Đảng và Nhà nước yêu cầu Hòa thượng Đôn Hậu cùng các lãnh đạo tôn giáo thay phiên với Bộ Chính trị đứng gác quan tài ông Hồ.

Dưới chế độ Cộng sản đây vừa là đặc ân, vừa là vinh dự cao cấp, nhưng đồng thời nhắm tuyên truyền rằng nhân dân các giới “kính yêu Bác Hồ”. Mặc, Hòa thượng Đôn Hậu khước từ, dù bao áp lực của Đảng. Ngài cho họ biết rằng truyền thống chư Tăng Phật giáo không lạy bất cứ ai (bất bái quân vương) ngoài Đức Phật. Bộ Chính trị bẽ lý luận này khi nói : “Hòa thượng tuy Tăng sĩ nhưng còn là một công dân tham gia cách mạng. Đây là nhiệm vụ và bổn phận công dân chứ không phải là Tăng sĩ”. Hòa thượng liền đáp : “Quý vị nói rất đúng, tôi xin thi hành nghĩa vụ công dân này. Tuy nhiên xin qúy vị thỏa mãn một lời yêu cầu của tôi để tôi an tâm thực hiện. Tôi tu học và xuất gia tại Huế, nay xin Đảng và Chính phủ cho tôi được về Huế xin phép chư Tăng cho tôi xả giới thôi làm Tỳ kheo Đôn Hậu để có thể trở thành công dân Đôn Hậu. Như thế việc gác quan tài Bác mới danh chính ngôn thuận”. Bộ Chính trị bực mình nhưng đành nói đưa : “Thời buổi Mỹ Ngụy còn chiếm đóng miền Nam, làm sao chính phủ đưa bác về Huế được !”. Rồi cho qua.

Hòa thượng Thích Đôn Hậu là người tôn giáo độc nhất trong các tôn giáo tại Việt Nam khước từ gác quan tài Hồ Chí Minh. Không như thập niên 80 khi ông Tôn Đức Thắng chết, Hòa thượng Thích Trí Thủ và Hồng y Trịnh Như Khuê được chỉ định đứng gác quan tài ông Tôn và hai vị đã thi hành. Trong tập Thơ Tù của Hòa thượng Thích Quảng Độ có bài “Sư Cụ và Đức Cha” châm biếm việc này,

Trước khi qua đời vào tháng tư năm 1992, Hòa thượng để lại Di chúc yêu cầu tang lễ thầm lặng, đơn giản dành cho nhà tu Phật giáo, không được tổ chức rầm rộ hay đọc điếu văn, nhằm ngăn ngừa Nhà nước cộng sản lợi dụng tang lễ tuyên truyền cho chế độ. Dự kiến của Hòa thượng đã thành sự thật khi Hà Nội giành quyền tổ chức tang lễ và cử người vào đọc điếu văn đồng thời gắn huy chương Hồ Chí Minh lên kim quan ngài. Thế là có sự phản đối của chư Tăng chùa Linh Mụ chống việc chính trị hóa tang lễ. Tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng, 50 Tăng Ni tuyệt thực. Chùa Linh Mụ báo động sang Paris nhờ tôi can thiệp. Nhân danh Cơ sở Quê Mẹ và trong vị thế Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tôi mở cuộc vận động quốc tế tại LHQ, các trung tâm quyền lực Âu Mỹ và các cơ quan truyền thông, báo chí quốc tế. Tin truyền nhanh nổ lớn, gây áp lực lên công luận thế giới giúp chư Tăng chùa Linh Mụ hoàn thành tang lễ theo Di chúc của Hòa thượng Đôn Hậu.

Hòa thượng Thích Nhật Liên, đệ tử y chỉ và Trưởng ban Tang lễ chùa Linh Mụ, đã đánh Fax cho tôi báo tin lành, cảm tạ và tặng tôi một bài thơ. Từ đó kéo đến cuộc đấu tranh quyết liệt của Phật giáo Huế dẫn tới cuộc biểu tình 40.000 (bốn mươi nghìn) người hôm 24.5.1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo, mà báo chí Hà Nội quy kết tôi chủ động điều khiển. Một cuộc biểu tình không tiền khoáng hậu dưới thời Cộng sản. Khiến Viện Khoa học Công an phải cấp tốc tổ chức cuộc Hội thảo “Diễn biến Hòa bình” ngày 26.6.1993 tại Hải Phòng với nhiều tham luận của các tướng Đặng Vũ Hiệp, Lê Quang Thanh, v.v.. đánh giá cuộc biểu tình Huế mang nguy cơ mất nước, và là “tiếng chuông cảnh tỉnh chúng ta về tác động hiện thực do khả năng địch tiến hành chiến lược diễn biến hòa bình”.

Tại tang lễ ở chùa Linh Mụ, Hòa thượng Thích Huyền Quang được cố Hòa thượng Đôn Hậu phó chúc làm người thừa kế lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để vận động đòi hỏi quyền sinh hoạt pháp lý của giáo hội. Vì vậy, nhà cầm quyền Hà Nội gia tăng đàn áp, khủng bố Hòa thượng Huyền Quang và hàng giáo phẩm đi theo con đường của cố Hòa thượng Đôn Hậu. Trong cuộc đấu tranh này tôi tiếp tục hỗ trợ Phật giáo ở cương vị một tổ chức nhân quyền ngoài Phật giáo (Quê Mẹ và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam) như 17 năm trước từng ủng hộ cho các giáo hội Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài hay các cá nhân, phong trào nhân quyền trong nước hoặc các văn nghệ sĩ, tù nhân chính trị ở các trại Cải tạo bị áp bức.

Tình hình đàn áp Phật giáo ngày một căng thẳng, Hòa thượng Thích Huyền Quang viết thư cảm ơn sự hỗ trợ của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, rồi tiếp đó viết thư tay mời tôi trở lại trực tiếp tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như trước năm 1975 để nhân danh giáo hội mở cuộc vận động quốc tế.

Tôi do dự rất nhiều.

Do dự vì bản thân tôi không muốn đi vào con đường cục bộ của một tôn giáo, một đảng phái. Mặt khác, cộng đồng thế giới, từ LHQ đến các tổ chức nhân quyền và chính giới Âu Mỹ cũng như cộng đồng người Việt biết tôi như người làm văn hóa và tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ Việt Nam qua danh xưng Cơ sở Quê Mẹ và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam mà tôi làm chủ tịch, chứ không là người của Phật giáo. Mặt khác tôi từng trải qua một kinh nghiệm đau buồn và thất vọng khi cộng tác với ông Nhất Hạnh cuối thập niên 60, nên tự hứa sẽ chẳng bao giờ dính dáng đến giáo hội nữa. Nhưng cuối cùng tôi nhận lời giúp và cho ra đời cơ sở mới của Phật giáo ở hải ngoại có tên “Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế”.

Có thể nói từ 1963 đến nay chưa bao giờ Phật giáo có một cơ sở truyền thông mang tính quốc tế và đóng góp hữu hiệu cho công cuộc vận động hồi sinh Phật giáo và dân chủ hoá Việt Nam.

Sau khi Hòa thượng Thích Quảng Độ được đặc xá năm 1998, và trong vị thế Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ngày 27.8.1999, Hòa thượng ký Quyết định mang số 01/VHĐ/QĐ, công cử tôi làm Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế là cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Đạo trong nước.

Tôi nhận lời vì hai lẽ. Một là vì thế giới và truyền thông quốc tế đã hoàn toàn lãng quên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, dù Giáo hội đấu tranh cho mục tiêu tự do tôn giáo và nhân quyền, dân chủ sớm hơn bất cứ tôn giáo hay phong trào nào tại Việt Nam. Cuộc tự thiêu tập thể của 12 Tăng Ni ở Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, ngày 2.11.1975 phản đối chính sách cộng sản đàn áp Phật giáo và vi phạm nhân quyền là hành động minh thị ý hướng tự do và dân tộc của Phật giáo thoát ly khuynh hướng truyền đạo cục bộ. Chưa kể hàng nghìn bức thư của Viện Hóa Đạo khiếu kiện Cộng sản, vạch trần các sự thể đàn áp, bức hiếp Tăng Ni, Phật tử sau ngày 30.4.75.

Thứ hai là vì tôi thất vọng với số lớn các tổ chức đấu tranh ở hải ngoại không có tầm chiến lược, lại không theo kịp xu thế thế giới và trào lưu phát triển con người. Trong khi ấy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là xã hội dân sự lớn nhất tại Việt Nam, có cơ sở quy mô và tổ chức rộng tới các cấp làng xã. Đây là lý do làm cho Đảng Cộng sản sợ hãi, biến thành chính sách đàn áp cơ bản của Nhà nước Cộng sản. Đảng có ý thức quần chúng hơn bất cứ ai nên rất sợ phải đối đầu với khối quần chúng lớn rộng có tổ chức của Phật giáo vốn không thần phục Đảng.

 
Tài liệu “Thống nhất Phật giáo” của cán bộ cao cấp Đỗ Trung Hiếu viết năm 1994 tiết lộ sự sợ hãi này. Cần biết ông Đỗ Trung Hiếu, bí danh Mười Anh, người Ninh Hoà, đảng viên cộng sản thâm niên, được Ðảng giao làm công tác Tôn giáo vận. Trước 1975, ông là Trưởng ban Trí Trẻ (vận động trí thức, sinh viên, học sinh) khu Saigon - Gia Ðịnh, công tác dưới quyền của Khu ủy Trần Bạch Ðằng. Sau 1975, ông được Xuân Thủy rồi Nguyễn Văn Linh và Trần Quốc Hoàn trực tiếp giao phó nhiệm vụ “thống nhất Phật giáo”, mà thành quả là sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Giáo hội Nhà nước) ngày 4 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Chính ông Xuân Thủy, người điều khiển Phái đoàn Hà Nội tại hòa hội Paris cuối thập niên 60, bí thư Trung ương Ðảng, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, kiêm bí thư Ðảng Ðoàn Ủy ban Mặt trận Trung ương, đã triệu ông Đỗ Trung Hiếu từ Saigon ra Hà nội đầu năm 1979 và giao cho ông Hiếu chức Chính ủy của Ðoàn công tác thống nhất Phật giáo Việt Nam, tức công cụ hóa Phật giáo làm tay sai chính trị cho đảng Cộng sản.

Do bất mãn chính sách tôn giáo của Đảng mà ông Hiếu viết tài liệu này. Qua 50 trang đánh máy, khổ A4, ông Ðỗ Trung Hiếu cho biết chi tiết từng tên tuổi các vị lãnh đạo Ðảng đến hàng giáo phẩm cao cấp Phật giáo, theo hoặc chống, trong quá trình thống nhất Phật giáo, do Ðảng chủ trương sau ngày Saigon sụp đổ năm 1975.

Ông Hiếu cho biết một cách chính xác chủ trương của Trung ương Ðảng và Ban Dân vận Trung ương về vấn đề thống nhất Phật giáo. Ông viết :

“Nội dung đề án là biến hoàn toàn Phật giáo Việt Nam thành một hội đoàn quần chúng. Còn thấp hơn hội đoàn, vì chỉ có Tăng, Ni, không có Phật tử ; chỉ có tổ chức bên trên không có tổ chức bên dưới, tên gọi là Hội Phật giáo Việt Nam (...) Nội dung hoạt động là lo việc cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội (...) Lấy chùa làm cơ sở chứ không phải lấy quần chúng Phật tử làm đơn vị của tổ chức Giáo hội”.

Về sự thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Giáo hội Nhà nước hay Quốc doanh) tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4.11.1981, ông Hiếu nhận định :

“Thực sự đại biểu là giữa Phật giáo của ta và Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam đều là đại biểu dự Ðại hội, trong đó đại biểu của ta đa số. Chín tổ chức và hệ phái Phật giáo, Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một, còn lại tám với những danh nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều hoặc là ta hoặc là chịu sự lãnh đạo của Ðảng”. (...) Cuộc thống nhất Phật giáo lần này bên ngoài do các hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến tướng Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Ðảng”.

Kể từ Chỉ thị số 20 do ông Trần Xuân Bách thảo và Bí thư thứ nhất Lê Duẩn ký năm 1960, chủ trương trên đây là lập trường bất biến của Ðảng và Nhà nước cộng sản đối với Phật giáo. Chính ông Xuân Thủy trình bày và nhấn mạnh trong cụ thể cho Ðỗ Trung Hiếu khi bàn giao nhiệm vụ :

“Việc thống nhất Phật giáo Việt Nam theo tôi biết, Ðảng chủ trương thống nhất Phật giáo của ta với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang. Phật giáo của ta là “Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam” và “Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước” ở miền Nam. Ở miền Bắc, phật tử đã vào các đoàn thể quần chúng hết rồi, chỉ còn những cụ già đi lễ bái ở chùa ngày rằm, mồng một, theo tục lệ cổ truyền. Sư tiêu biểu thật hiếm. Cụ Trí Ðộ đã luống tuổi, quanh đi quẩn lại vẫn cụ Phạm Thế Long, nhưng khả năng đức độ của cụ ảnh hưởng trong nước và quốc tế hạn chế. Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước có khá hơn một tí. Cụ Minh Nguyệt (đảng viên cộng sản, theo ô. Hiếu) có thành tích ở tù 15 năm Côn Ðảo, cụ Thiện Hào (đảng viên cộng sản, theo ô. Hiếu) có thành tích đi kháng chiến, nhưng điều phật tử cần ở nhà Sư, cả hai cụ đều hạn chế.

“Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang là một tổ chức tôn giáo và tổ chức quần chúng mang tính xã hội chính trị có màu sắc dân tộc, thu hút đông đảo quần chúng và có uy tín trên thế giới, nhiều nhà sư tài giỏi. Nếu thống nhất theo Kiến nghị của cụ Ðôn Hậu, có nghĩa là giải thể “Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước”, sáp nhập “Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam” (ở Miền Bắc) vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và chịu sự lãnh đạo của họ. Như thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát triển ra toàn lãnh thổ Việt Nam chứ không chỉ ở miền Nam như trước năm 1975.

“Quan trọng là Ðảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Ðảng và chính phủ Việt Nam.

“Thống nhất theo dự án của ban Tôn giáo chính phủ chưa ổn lắm, vì chung qui cũng đưa các cụ ở Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (của Ðảng ở miền Bắc) và Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước (của Ðảng ở miền Nam) xách cặp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà thôi”.

Đấy, sức mạnh thực hữu và uy tín của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát ra từ miệng các ông trùm Cộng sản. Có đâu như gần đây một vài Tăng sĩ cơ hội, Phật tử cơ hội ở Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu, Châu Úc bêu riếu Giáo hội chỉ còn có hai người là đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ !

Không có ai, trong nghĩa chẳng ra gì, mà sao cả đại Bộ Công An ở Hà Nội cho đến bọn khuyển mã Giao Điểm, rồi ba nhóm Phật giáo cơ hội Về Nguồn, Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại, Thân hữu Già Lam không ngớt chửi bới, bôi nhọ, vu hãm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại còn tiếm danh Giáo hội để làm tiền xây chùa và mong mỏi không bị Cộng đồng Người Việt Tị nạn hỏi thăm về việc thỏa hiệp hay đi đêm với Hà Nội của bọn này ?

Thập niên 60 uy danh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lớn biết bao trong dư luận thế giới và qua các hãng tin quốc tế. Thế mà sau 1975 chẳng còn ai nhắc đến, năm thì mười họa mới có một dòng tin không gây xúc động hay mang lại niềm hứa hẹn. Phật tử hải ngoại đông nhưng vắng mặt trong những động thủ quốc tế. Đây là lý do khiến tôi muốn ra tay điều chỉnh sự bất công đối với Phật giáo Việt Nam trên trường quốc tế. Và điều chỉnh được kể từ năm 1992 trở đi.

Tôi nhìn Phật giáo Việt Nam trong thế toàn cầu, như một đóng góp nhân loại trước các vấn nạn khủng hoảng tư tưởng, văn hóa và nhân tâm.

Lý do thứ hai như đã nói sơ bộ ở trên, là sau khi nghiên cứu các hoạt động của một số tổ chức người Việt ở hải ngoại, tôi nhận thấy hoạt động thường vụ tuyên truyền hay để thỏa mãn tự ái một thời, nhưng lại thiếu thực chất và chủ lực. Không có viễn kiến hoặc thù ứng với xu thế thế giới. Đặc biệt không gia công tiếp cận, hậu thuẫn hay gầy dựng chủ lực trong nước.

Vì không có chủ lực trong nước, nên bơm phồng những con số kháng chiến quân, những mật khu ảo, hoặc nay bốc tên người này mai bốc tên người khác dương đông kích tây hòng phát triển tổ chức đảng phái. Có khi dựa hơi vào những người bất mãn thuộc phe Mặt trận Giải phóng miền Nam cũ, hoặc cựu đảng viên Cộng sản… Bắn bừa lên truyền thông hàng loạt tên những người không chân đứng, không thế lực, miễn những người này chịu nhắc tới hai chữ “dân chủ”, “nhân quyền”. Bất cần quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” của những người này có phù hợp với tiêu chí dân chủ của thế giới tiến bộ hay không.

Họ chỉ vụ tuyên truyền ồn động nhằm phát triển đảng hay tổ chức họ, mặt khác chứng minh cho dư luận là có một “phong trào dân chủ” tại Việt Nam; dù bất lực trong việc tổ chức cơ sở quốc nội hay đoàn ngũ hóa quần chúng; dù đằng sau tên các người họ đề cao có lực lượng hay không, được tổ chức ra sao, dân chủ kiểu nào. Cung cách hoạt động ăn xổi như thế không đưa tới giải pháp thay thế mà tuyệt đại đa số dân Việt trông đợi. Nhìn cách cư xử “đem con bỏ chợ” đối với đoàn viên của họ khi những người này bị bắt là biết ngay sự đầu cơ của họ. Khi đoàn viên họ bị bắt trong nước, chẳng có cơ sở thăm nuôi, bênh vực. Đến khi được trả tự do thì những “chiến sĩ dân chủ” hay “kháng chiến quân” ồn ào trước kia bỗng im bặt, ngưng luôn các hoạt động.

Chân nhận tính cách hoạt động không có tương lai như thế, tôi thấy cần giúp đỡ và phát triển những cơ sở thực hữu quốc nội, mà Phật giáo là một. Dù tình trạng quốc nội cũng khá nguy nan. Các đảng phái quốc gia mất chân đứng vì lãnh tụ nằm tù hoặc chạy ra nước ngoài. Quần chúng đảng phái bị siết cổ trong ba gọng kìm Cộng sản : chủ nghĩa lý lịch, công an khu vực và hộ khẩu.

Ngoài đảng Cộng sản, đảng lớn nhất với số lượng đảng viên gần ba triệu, chỉ còn lại các tôn giáo như những xã hội dân sự còn sống sót. Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành… là những xã hội dân sự tồn tại dưới chế độ độc tài toàn trị. Nội hàm các tôn giáo đặt trọng tâm vào con người, nên nỗ lực thường xuyên bảo vệ con người trong nguồn sống tâm linh. Có thể nói quần chúng dân tộc hiện nay là quần chúng các tôn giáo, tiêu biểu là Phật giáo, đối đầu với thiểu số quần chúng tha hóa vì vọng ngoại là Đảng Cộng sản.

Muốn thay đổi thực trạng Việt Nam phải dựa vào quần chúng dân tộc. Không thể dựa vào các tổ chức ảo, sống bằng mộng ước xa rời thực tại, đang bị cắt lìa tổ quốc, hoặc hoạt động như con bài chờ thời chờ ngoại bang dẫn dắc.

Do thiếu hiểu biết về các tôn giáo khác, vì bản thân tôi theo đạo Phật và có liên hệ với giáo hội từ thập niên 40, tôi chọn xã hội dân sự Phật giáo thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để vừa bảo vệ Phật giáo trước sức tiến công tiêu diệt Phật giáo của chủ nghĩa Hư vô cộng sản, vừa đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Nếu tôi là người Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài… tôi cũng sẽ chọn lựa con đường tôn giáo tôi theo như thế. Nhưng điểm hẹn tối hậu và cuối cùng vẫn là Việt Nam  - dân tộc Việt Nam.

 
11. Lê Thị Huệ:  Nhìn lại các quốc gia tiến bộ đều là những quốc gia có nền văn hóa với nhiều ưu điểm, theo ông thì văn hóa Việt Nam có những ưu khuyết điểm nào trong việc phát triển quốc gia

Võ Văn Ái : Văn hóa hiện tại trong nước là văn hóa Mác-xít. Không phải văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam phát triển theo con đường truyền thống có tiếp thu qua lịch trình 2000 năm so với thế giới có nhiều ưu hơn khuyết. Điểm khuyết của nền văn hóa Việt Nam là chưa phát triển tận cùng Ý thức Dung hóa. Cụ Phan Khôi là người giải thích ý thức dung hóa khá hình tượng. Cụ bảo tằm ăn lá dâu nhả ra tơ, voi ăn bã mía chỉ thoát ra phân. Tôi hiểu ý thức dung hóa là con tằm.

Tục ngữ ví von khá cảm động : Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Cảm động và chan chứa tình quê nhưng không thực tế. Nhân loại ngày càng bước tới nền văn minh tổng hợp, vượt thoát biên giới quốc gia. Từ chân trời thiên niên kỷ thứ ba đã ló ra một nền văn minh xuyên hành tinh. Thế mà người Việt cứ quanh quẩn với cái “ao nhà” xem ra bất tiện và lạc hậu. Từ cái “ao nhà” chan chứa tình quê, nay biến thành quán tính và lối suy nghĩ cục bộ, vùng miền, địa phương, tất khó phát triển và tiến bộ, lại đánh mất tính nhân loại.

Truyền thuyết Âu Cơ – Lạc Long quân chia 50 con lên núi, 50 con xuống biển tạo dựng mối quân bình giữa trí tuệ (núi) và trái tim tức hành động (biển). Thế nhưng chúng ta quên mất thế quân bình giữa tim và óc ấy, để sống mãi với vong thức phân hóa, chia rẽ, tranh chấp.

Điều còn thiếu trong nền văn hóa Việt Nam là tính sáng tạo. Thiếu sáng tạo nên giỏi bắt chước. Giỏi bắt chước dẫn tới việc đi làm mọi cho người. Những thế kỷ xưa, khi Phật giáo tàn tạ vì giới Cư sĩ trí thức Phật giáo vắng bóng, đạo Phật rơi vào tay các ông thầy cúng, thì sĩ phu Việt Nam đi học Tàu, rất chăm và rất cố tín. Đầu thế kỷ XX sĩ phu Việt Nam thức tỉnh trước sự xâm lấn Tây phương. Nhưng sự thức tỉnh ấy chỉ đẻ ra hai giới trí thức làm mọi cho Tây phương thực dân và Tây phương cộng sản. Không thấy các ông sáng tạo được tư tưởng gì cho sự tự do tối hậu của con người, không đẻ ra một triết lý chính trị cứu dân cứu nước như ông Gandhi bên Ấn Độ.

Nước ta cần phát triển tính tự trào. Người Việt nghiêm trang quá. Nghiêm trang đến nghiêm trọng, rồi quan trọng hóa cá nhân mình thành những thần hoàng xa lạ, cô đơn nơi miếu thờ. Khiến cho một quốc gia mà số tổng thống đông hơn dân. Ta biết châm biếm và châm biếm giỏi, nhưng là châm biếm người khác. Không biết tự trào, tự châm biếm mình, không biết tự thân phục thiện, tự thân cầu thị.

Do vị thế địa chính làm cho đất nước bị kẻ mạnh thường xuyên xâm lấn, châm biếm trở thành vũ khí của kẻ yếu. Xài lâu qua trường kỳ lịch sử với bọn ngoại xâm, nay quay ngược trở thành châm biếm nhau trong cộng đồng dân tộc. Không còn biết quý trọng nhau. Nhân tài của nước Nhật được trân quý như Quốc bảo mỗi khi họ đi ra nước ngoài, được tôn vinh và bảo vệ. Nhân tài nước ta bị dân ta xúc xiểm, đàn hặc, ác khẩu châm biếm, miệt thị. Nay sự châm biếm vô ý thức ấy được bồi dưỡng thêm nền văn hóa chửi, nền văn hóa cáo buộc của Cộng sản, chúng ta biến châm biếm thành mạ lỵ tục tằn, thành bia miệng giết người. Đánh mất sự khôn ngoan của tổ tiên Khôn ngoan đá đáp người ngoài / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Cầu mong văn học nước ta xuất hiện một Lỗ Tấn, một Bá Dương, một Cervantès. Lỗ Tấn của Cố sự tân biên (Chuyện cũ viết lại), Bá Dương của Người Trung quốc xấu xí, Cervantès của Don Quichote, để sau đó tượng hình cho tư tưởng Việt  - tư và tưởng cho con đường siêu vượt mọi giới hạn (Grenzsituation).

 
12. Lê Thị Huệ: Ông trả lời như thế nào khi Việt Nam nói nhân quyền là vấn đề thuộc về văn hoá, và Việt Nam có văn hóa riêng về nhân quyền?

Võ Văn Ái : Chị muốn nói Việt Nam đây là Nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội phải không ? Chỉ có Cộng sản Hà Nội mới lụm ca lụm cụm phát huy “Ngoại lệ nhân quyền Châu Á” như thế. Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền Hà Nội đại biểu cho ý thức hệ ngoại lai Tây phương Cộng sản. Họ thiếu hiểu biết và không có tư cách để nói về văn hóa Việt Nam.

Tháng 5.1997, Viện Nghiên cứu Bắc Âu về Á châu học thuộc Đại học Copenhagen, Đan Mạch, cùng Trung tâm Nhân quyền Đan Mạch kết hợp với Bộ Ngoại giao Đan Mạch tổ chức cuộc Hội luận “Nhân quyền và các giá trị Châu Á” mời các học giả Anh, Bắc Âu, Đài Loan, Hoa Kỳ, Hồng Kông, Tây Âu và Úc đến tham luận. Tôi được mời tham dự cho Việt Nam. Bài tham luận của tôi “Human Rights and Asian Values in Vietnam”  (Nhân quyền và Giá trị châu Á tại Việt Nam) sẽ là câu trả lời đầy đủ cho chị. Bài này được chọn cùng với 13 tham luận in trong sách “Human Rights and Asian Values, Contesting National Identities and Cultural Representations in Asia” do nhà xuất bản Curzon Press ấn hành tại Anh quốc năm 2000.

Nói tóm gọn có thể diễn trình như thế này : Á châu đi trước Tây phương rất lâu về Quyền Con Người. Quyền Con Người ở phương Đông đứng ở vị trí vũ trụ, chứ không chỉ ở vị trí pháp quyền trong xã hội phương Tây. Cần hiểu vũ trụ trong nghĩa vũ là không gian, trụ là thời gian, cũng như thế giới thì thế là thời gian, giới là không gian, hai phạm trù quy định sự suy tưởng và cuộc sống con người.

Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền LHQ được công bố năm 1948, manh nha và gợi hứng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền thời Cách Mạng Pháp 1789 và 1793, từ Glorious Revolution/Bill of Rights của Anh quốc năm 1688 - 1689, và từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776. Nhưng gần ba nghìn năm trước, Đức Phật đề cao địa vị độc tôn của Con Người trong 6 thế giới (gồm 3 cõi lành  - cõi Trời, cõi A Tu La, cõi Người -  và 3 cõi ác  - Súc sinh, Quỉ đói và Địa ngục). Khi Phật Thích Ca phát ngôn “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, thì địa vị con người không còn bị khinh miệt, trái lại rất cao cả và ở địa vị trung tâm. Giác ngộ dễ thực hiện nhất ở thế giới con người, là lời Phật dạy. Vì cõi trời sung sướng nên giãi đãi, cõi súc sinh quá khổ lụy để nghĩ tới việc tiến thân.

Hệ thống Tam tài của Khổng giáo  – Thiên Địa Nhân –  đặt con người ở vị thế trung gian, nối liền giữa trời và đất. Câu nói của Mạnh Tử “Người dân quý nhất, vua nên xem nhẹ, đất nước là thứ yếu” (Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi) là một phát biểu đề cao và tôn trọng Quyền Người, Quyền Dân.

Các nước độc tài, độc đoán, quân phiệt ở Á châu như Trung quốc, Bắc Hàn, Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai của Mahathir… cao giọng vào đầu thập niên 90 đòi hỏi “Ngoại lệ Nhân quyền Châu Á” là thủ thuật bế môn tỏa cảng để đàn áp dân lành và ngăn cản xự can thiệp của các nước Âu Mỹ trên lĩnh vực nhân quyền.

Xin làm thành viên LHQ tất phải tôn trọng Hiến chương, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các Công ước quốc tế của LHQ. Hà cớ gì chữ ký chưa ráo mực đã phản bội các công ước LHQ khi đòi hỏi biệt lệ nhân quyền Châu Á ? Ông Hồi giáo Mahathir của Mã Lai còn lên tiếng đòi viết lại bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế cho phù hợp với Châu Á ! Có nền văn hóa nào trên thế giới xem khinh con người ? Ngoại trừ nền văn hóa không-có-con-người của Cộng sản  - cá nhân là con số không trong tập thể.

Việt Nam có văn hóa riêng về nhân quyền. Đúng. Nhưng trong nghĩa bổ sung sự cao đẹp nhân quyền, chứ không chống bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Việt Nam đây là Việt Nam không Cộng sản. Trái lại, nhân quyền Cộng sản là Trại Tập trung Cải tạo lao động, là tố khổ, là tòa án nhân dân, là thảm sát người hiền lương, là phỉ nhổ nhân phẩm. Làm sao có được nhân quyền trong chủ nghĩa không-có-con-người của Cộng sản ?!

Vì vậy mà ngày bỏ phiếu thông qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền tại đại hội đồng LHQ năm 1948, Liên Xô và 5 nước chư hầu Ba Lan, Belarus, Tchecoslovaquie, Ukraine và Yougoslavie bỏ phiếu trắng vì chê Tuyên ngôn “lỗi thời”, “lạc hậu”. Hai nước chống là Arabie Saoudite và Nam Phi. Arabie Saoudite không chấp nhận việc con người có quyền thay đổi tôn giáo, không chấp nhận kiểu sống một vợ một chồng và không chấp nhận triệt tiêu chế độ nô lệ. Còn Nam Phi cho rằng việc cấm phân biệt đối xử là quá đáng.

Bộ luật Hồng Đức đời Lê mới là văn hóa nhân quyền của Việt Nam tiền Cộng sản, khiến giáo sư Olivier Oldman ở Đại học Havard, Hoa Kỳ, đánh giá cao bộ luật đời Lê này. Ông viết : “Việc xây dựng một nhà nước dân tộc mạnh với sự bảo hộ cho những quyền tư hữu hợp pháp bằng hệ thống luật pháp tiến bộ so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”.

Tôi xin đơn cử vài điều để so sánh luật thời Lê, thời vua chúa phong kiến nói theo ngôn ngữ Mác-xít Hà Nội, với “luật pháp” dưới triều đại Hồ Chí Minh, thời của “đỉnh cao trí tuệ” :

Trong bộ luật thời Lê, ở điều 2 về Thập ác, tức 10 điều ác, thì tiết 1 về tội mưu phản, gọi là mưu mô làm nguy đến xã tắc, tiết 3 về tội mưu chống đối, tức mưu phản nước theo giặc. Ta thấy rõ luật pháp ở thời Lê liên hệ đến xã tắc, tức quốc gia, dân tộc, liên hệ đến việc giữ nước. Còn thời nay, các tội ấy liên quan riêng chế độ Cộng sản, chẳng liên quan chi đến đất nước. Người dân bị trừng phạt là những người có quyết tâm bảo vệ xã tắc và dân tộc, bảo vệ Tổ Hồng Bàng, nhưng không chịu thờ lạy ông Mác, ông Mao, ông Lênin.

Điều 3 trong Quốc triều hình luật thời Lê quy định 8 trường hợp được giảm tội, gọi là Bát nghị, thì có 3 trường hợp giảm tội cho những người có đức hạnh lớn, gọi là Nghị hiền, những người có tài năng lớn, gọi là Nghị năng, và những người cần cù, chăm chỉ, gọi là Nghị cần. Còn ngày nay, dưới chế độ Cộng sản, thì pháp luật bỏ tù, hành hạ, ngược đãi tất cả các hiền nhân lãnh đạo tôn giáo, các nhà trí thức, chuyên gia, văn nghệ sĩ, các nông dân, nghệ nhân, chẳng phân biệt ai. Cộng sản không cần người hiền, người tài, người cần cù cho tổ quốc, họ chỉ cần những tên nô lệ gọi dạ bảo vâng.

Điều 16 trong Quốc triều hình luật thời Lê, thì những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người phế tật đều được giảm khinh, cho phép chuộc tiền để thay tội ; từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống mắc tội chết thì phải tâu vua xét lại ; từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống có bị tội chết cũng không hành hình, đặc cách không thích vào mặt. Còn ngày nay dưới thời đại nhà Hồ, thì già đến 90 tuổi, 80 tuổi, 70 tuổi, trẻ đến 15 tuổi, 10 tuổi, 7 tuổi đều bị trừng trị không nương tay, và ở tù mút mùa. Tại các trại Cải tạo lao động, như trại Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai là một, những người già, bệnh, run rẩy 70, 80 tuổi đang chết mòn. Còn thiếu nhi, từ bé sơ sinh đến 9, 10 tuổi đầy dẫy trong các trại này.

Đấy, nội dung nhân quyền giữa một chính quyền dân tộc và một chính quyền ngoại lai mác-xít là như thế.

 13. Lê Thị Huệ:  Ông nghĩ gì về chủ nghĩa Cọng Sản và những hệ quả của nó trên đất nước Việt Nam

Võ Văn Ái : Chủ nghĩa Cộng sản là Hư vô chủ nghĩa, tập đại thành tiêu cực của  triết lý Tây phương từ Platon đến Marx. Một chủ nghĩa Không-Có-Con-Người. Nó chỉ sản sinh loài nô lệ. Nô lệ là kẻ sống bằng giấc mộng của kẻ khác, mệnh lệnh của kẻ khác. Kẻ khác sáng thế ra nó. Nó mất khả năng sáng tạo của con người toàn diện và toàn bộ trong các tương quan cá thể với thế giới, với mọi loài, và vũ trụ. Chủ nghĩa Cộng sản chỉ biết thống trị, không biết thành tựu thế mệnh nhân sinh.

Chỉ có Tuệ giác Siêu việt Bát Nhã của Không tính (Śūnyatā) Phật giáo mới có thể phá đổ toàn triệt tất cả chủ nghĩa Hư vô[7].

Phê phán của Marx về tư bản Tây phương thế kỷ XIX có tính công bằng và nhân đạo. Nhưng từ khi Lenine đem phê phán kinh tế và xã hội của Marx vào áp dụng chính trị Bolchevik ở Nga, rồi kế tục với Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, thì chủ nghĩa Cộng sản biến thành chủ nghĩa hút máu, một thứ chính trị côn đồ  - Voyoucratie -  tập trung vô liêm sỉ các quyền lực quốc gia.

Marx để lại cho con gái Laura một thủ bản viết bằng tiếng Anh như lời tự thú khi ta đem so sánh với những chi đảng Cộng sản thực hiện trên địa cầu : “Ý tưởng của cha về sự khốn cùng là sự ngoan ngoãn phục tùng (submission) và cái tật mà cha ghét nhất là sự nô lệ đê hèn (servility)”.

Hệ quả của chủ nghĩa Cộng sản trên đất nước Việt Nam còn gì phải hỏi : lỗi thời và  tụt hậu vào hạng bét trên bảng thứ nhân loại từ tinh thần đến vật chất. Đưa một nước phú cường so với các nước Đông Nam Á trong vùng vào thập niên 60, 70, ngày nay tụt hậu sau các nước như Singapore, Thái Lan… Đại công thần của Nhà nước cộng sản là Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng phải thán lên trong thời gian chuẩn bị Đại hội X Đảng Cộng sản năm 2006 rằng : “Phải thấy rằng, đến năm 2020, nước ta vẫn còn là một nước kém phát triển ngay trong nhóm các nước ASEAN, vẫn còn thua Thái Lan khoảng 20 năm về chỉ tiêu GDP tính theo đầu người” !

14. Lê Thị Huệ:  Bây giờ nhìn lại, ông nhìn cuộc chiến Việt Nam vừa qua như thế nào ?

Võ Văn Ái : Đây là cuộc chiến thừa sai của hai khối Tư bản và Cộng sản. Người Việt Nam không có tiếng nói, không đạt được mục tiêu sơ đẳng là độc lập, hòa bình, nói chi tới tự do và dân chủ. Bi kịch thảm thương của nước Việt là số người chết cả hai bên Nam Bắc lên tới 8 triệu (lính và thường dân), chưa kể đất đai, rừng núi, nhà cửa bị tàn phá, văn hoá vong thân.

Ấn Độ, Phi Luật Tân, Miến Điện, Singapore, … giành độc lập không thông qua chiến tranh đổ máu như Việt Nam cộng sản. Đâu là thần trí và văn hiến Việt Nam mà ta cứ hãnh diện hoài ? Cho nên trách nhiệm này Đảng Cộng sản phải chịu trước lịch sử.

Trách nhiệm thương đau này cũng đến từ giới lãnh đạo chính trị và trí thức. Cuộc va chạm với Tây phương thế kỷ thứ XIX chỉ đẻ ra được hai lớp trí thức theo Tây phương Tư bản và Tây phương Cộng sản. Không hội tụ thành giới sĩ phu dân tộc khôn ngoan đảm lãnh việc nước như ta chứng kiến tại Nhật Bản, Singapore, Nam Hàn, Đài Loan.

Một phần khác còn có trách nhiệm của thực dân Pháp. Nhà nước thuộc địa Pháp chỉ đẻ ra giới quan lại làm khuyển mã, tay sai, nhưng không đào tạo những cán bộ hành chính. Biến động 1945 ập tới, cả bộ máy quốc gia tan vỡ, không người điều hành, bỏ ngỏ cho những tay mơ cộng sản thao túng với mục tiêu Xô viết hóa dân tộc chứ không là xây dựng bộ máy nhà nước quốc gia.

Trái lại tại các quốc gia thuộc Anh, ngoài tính cách thực dân, Anh quốc chú tâm đào tạo quy mô và hệ thống giới viên chức hành chính tới cấp làng xã. Nhờ vậy sau biến động giành độc lập, các cơ quan hành chính toàn quốc không bị xáo trộn, khủng hoảng, mà được tiếp tục điều hành ổn định.

Trên đây chỉ đề cập hình thái vận hành một xã hội theo mô thức nhà nước. Chưa đề cập hay đặt lại vấn đề căn cơ là thể tính con người và sử tính dân tộc.
 
Nguyễn Trãi: Sinh Thức và Hành Động










Hình bìa Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động, Quê Mẹ ấn hành 1981, 1985, 1992


15. Lê Thị Huệ:  “Nguyễn Trãi, Sinh Thức Và Hành động”, tác phẩm thể hiện triết lý sống của ông? Ông đã viết tác phẩm này với mong ước gì ? Và Nguyễn Trãi là một mẫu trí thức dấn thân, bây giờ Nguyễn Trãi thời đại này phải làm cái gì ?

Võ Văn Ái : Ba lý do khiến tôi viết “Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành động”.

Nhận thấy đa số trí thức Việt Nam, từ Bắc chí Nam của hai chế độ, ca tụng những ông thần hoàng Tây phương, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, triết học, văn hóa… tôi tự thấy nên bỏ công nhìn lại lịch sử và nhân tài nước mình xem dân Việt có gì đáng hổ thẹn trên học trường thế giới. Đó đã là bước đầu khi tôi tiếp cận với Nguyễn Trãi giữa thập niên 60. Tôi nhận xét trong cuộc chiến tranh lúc bấy giờ, Hà Nội sử dụng lá bài dân tộc khi cho ra hàng loạt bài và sách nghiên cứu về Nguyễn Du, mà trước kia có thời họ chỉ trích, và Nguyễn Trãi, v.v…

Thoạt đầu sự trở về cội nguồn dân tộc, nguồn cổ văn làm tôi xúc động. Nhưng đọc các công trình này mới thấy chủ ý họ khai thác tình tự dân tộc cốt phục vụ cuộc chiến tranh Chống Mỹ, mà chống Mỹ là chống cho Liên Xô, làm lính đánh thuê cho Liên Xô, không cho dân tộc Việt.

Một thứ tâm lý chiến, hơn là đào sâu và bộc lộ tính dân tộc trong việc giải quyết cuộc tranh chấp phân đôi thế giới để Việt Nam có con đường chính trị mới. Truyền thống Việt Nam gọi là “bốn nghìn năm văn hiến” không đẻ ra được một Gandhi, một Nerhu như ở Ấn Độ.

Tôi nhớ hồi thập niên 60 có dịp trao đổi chính tình Việt Nam với ông Jean Sainteny, tác giả sách “Histoire d’une Paix manquée” và “Face à Ho Chi Minh”. Ông là một nhân vật chính trị Pháp thuộc phe kháng chiến của tướng De Gaulle trong thế chiến hai, dính líu vấn đề Việt Nam những năm 45 và là bạn của ông Hồ Chí Minh. Ông Sainteny nói với tôi rằng người Cộng sản Việt Nam dùng lá bài dân tộc với mục tiêu cộng sản hóa đất nước.

Hơn chục năm sau, tôi bắt gặp lại ý kiến ấy nhưng cụ thể hơn trong sách “Duel Rouge” của François Missoffe nói về cuộc tranh chấp giữa 200 triệu người Xô Viết chống 800 triệu người Tàu. Ở chương 7 sách này, Missoffe tiết lộ cuộc chuyện trò với một đại tá tình báo Liên Xô tại Hà Nội năm 1945. Đại tá này nói đến chiến lược xích hóa các nước đệ tam thế giới của Liên Xô. Ta nên chú ý thời điểm của câu chuyện là năm 1945, thì mới tỏ tường các biến động lịch sử sau đó ở Việt Nam, Cuba, Ai Cập, Angola, v.v… Vị đại tá Liên Xô nói với François Missoffe :

“Chính trị cơ bản của Liên Xô thật dản dị. Phá đổ các cựu cường quốc Tây phương và Hoa Kỳ đang là vật cản hiển nhiên trước mắt chúng tôi. Chúng tôi có hai cách tiếp cận. Một là nuôi dưỡng các đảng Cộng sản ở bên trong. Hai là cắt đường những cường quốc Tây phương với kho nguyên liệu, nghĩa là chận đường tới các thuộc địa cũ. Để hoàn tất việc này chúng tôi thực hiện kế hoạch ba giai đoạn.

“Giai đoạn một, tái tạo hay phát kiến ý thức quốc gia thúc đẩy quần chúng giành độc lập. Việc này có nghĩa giúp đỡ nghiên cứu, khai quật khảo cổ học để chứng minh rằng, hai ba nghìn năm trước Jésus-Christ đất nước đã có cư dân, cần sáng tạo hoặc khôi phục lịch sử. Ý thức độc lập sẽ phổ biến nhanh chóng và kích động giới trí thức và sinh viên… Thật dễ kiếm trong số người Đông dương theo học ở Sorbonne. Cũng dễ tìm những thanh niên thuộc quốc du học các trường bên Anh không cứ gì ở đại học Oxford. Tất cả giới trí thức này đều khao khát tham chính.

“Như ngọn lửa cháy rừng, giai đoạn một này chẳng khó khăn chi. Giai đoạn hai : Ý thức quốc gia chắc chắn nổ ra tranh chấp với thế lực thuộc địa. Ở đây chúng tôi có thể hậu thuẫn giới đòi độc lập dân tộc. Trong mọi trường hợp các anh khó đối diện với cuộc đấu tranh giành độc lập, vì nó nổ ra khắp mọi nơi, các anh ở xa hậu cứ, và các anh không thể giết hết mọi người. Kết luận : các anh buộc phải thương thảo với chúng tôi, còn chúng tôi thăng tiến quan điểm của chúng tôi [trên địa cầu].

“Một khi thu hồi độc lập, quốc gia trẻ trung còn mong manh và bị cô lập. Muốn có đủ phương tiện tất phải chọn theo một chế độ. Các quốc gia này có nhu cầu kết hợp. Quanh cái gì ?Chẳng cần là tiên tri, cũng có thể mường tượng ra. Kết hợp quanh một ý thức tôn giáo, hay quanh một ý thức chính trị. Ở Á châu này, tôi không tin tôn giáo là chất keo dính kết. Ý thức tôn giáo còn quá khuếch tán, nào là Hồi giáo, nào là Phật giáo…Làm sao liên kết mọi người quanh một chọn lựa tôn giáo thống hợp ? Chỉ còn lại ý thức chính trị, đó là đảng Cộng sản”. (Duel Rouge, François Missoffe, NXB Ramsay, Paris, 1977, tr. 33)

Trở lại câu hỏi của chị. Vấn đề dấn thân chỉ là phụ. Chính yếu là nan đề tư tưởng và thần trí một dân tộc. Cho nên khi viết về Nguyễn Trãi tôi cố tìm tòi, sờ mó, xem tư tưởng Việt Nam là gì, thần trí Việt Nam là gì? Làm sao thoát ly thứ Praxis manh động nhị nguyên của Cộng sản ? Trong cùng ý hướng và thời kỳ này, tôi dịch bản kinh cơ bản tiếng Phạn của Phật giáo Prajāñāparāmita hrdayasūtra / Kinh Ruột Tuệ giác siêu việt – Biện chứng phá mê trừ khổ. Tàu gọi là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh.




Hình bìa Kinh Ruột Tuệ Giác Siêu Việt – Biện chứng Phá mê Trừ Khổ,
Thi Vũ dịch và chú giải bản kinh chữ Phạn Prajāñāparāmita dayasūtra,
Nhà Xuất bản Rừng Trúc, Paris 1973






Lý do thứ hai, là trước cuộc khủng hoảng tâm thức và chính trị Việt Nam qua cuộc chiến tranh dữ dội, tàn khốc cuối thập niên 60 tôi muốn đối thoại với người làm chính trị Việt Nam, đặc biệt giới thanh niên, sinh viên, rằng có một con đường chính trị hào hùng Việt Nam ở thế kỷ XV. Đó là bản « Tâm pháp » của Nguyễn Trãi khai triển ở chương 9 như một Thông điệp chính trị của hồn thiêng sông núi.

Lý do thứ ba, tôi muốn kín đáo làm cuộc đối thoại với các học giả mác-xít ở Hà Nội. Cuốn sách viết xong năm 1971 tôi mong được in ở Saigon như một tiếng nói từ phương Nam. Nhưng anh Thanh Tuệ của nhà An Tiêm trì hoãn, chẳng hiểu lý do gì ? Cuốn sách gửi riêng cho các bạn tri âm được các anh Quách Tấn, Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương ngạc nhiên và tán thưởng sự tiếp cận của riêng tôi.

Sau đó anh Mặc Đỗ, một tri âm khác, Giám đốc Nhà xuất bản Trương Vĩnh Ký tình cờ đọc bản cảo viết thư xin tôi giao quyền xuất bản với tiền nhuận bút khá hậu hĩ. Tôi biên thư dàn xếp với Thanh Tuệ, nhưng anh ta không khứng, mặc dù chúng tôi chẳng có giao kèo gì. Chỉ là chuyện tình cảm, mà Thanh Tuệ là đệ tử của Nhất Hạnh. Tạp chí Bách Khoa có giới thiệu một hai chương rồi chẳng bao giờ được in trong nước.

Đến năm 1981 do hoạt động cho Con Tàu ra Biển Đông vớt Người Vượt Biển (Tàu Đảo Ánh Sáng) tôi bị Hà Nội, Đảng Cộng sản Pháp cho đến mấy ông « quốc gia » ở Paris phá. Hậu quả là nhà in của chúng tôi ở Paris lâu nay tài trợ cho việc tranh đấu và in tạp chí Quê Mẹ bị vỡ nợ và bị tịch biên gia sản. Vào lúc xé lòng ấy tôi mới nghĩ chuyện xuất bản “Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành động” như kỷ niệm một thời. Sau tái bản hai lần vào 1985, 1992.

Lý do đối thoại là tôi biết ở Hà Nội có những học giả uyên thâm, nhưng bị chế độ kềm kẹp văn hóa, không ai dám lên tiếng lại không có hoàn cảnh trước tác. Giới học giả của chế độ thì vô tình hay cố ý bị vo tròn theo luận điểm nhà nước Mác – Lê, nên sự khai thác vốn cũ dân tộc của các ông Nguyễn Hồng Phong, Trần Huy Liệu, v.v… quá sai lệch, nguy hiểm.

Ông Hà Văn Tấn một học giả uyên thâm, có công trình độc đáo khi viết về ba cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông. Nhưng bước sang lĩnh vực Phật học, thì tỏ rõ học thuật Mác-Lê miền Bắc chỉ vụ đấu tranh giai đoạn. Không vào sâu quá trình nghiên cứu. Nhân đọc bài ông Tấn viết trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử năm 1965 về 100 cột kinh Phật do Tiết độ sứ Nam Việt Đinh Liễn sai khắc năm Quý Dậu (973) mà Hà Nội khai quật và phát hiện ở Hoa Lư năm 1963, tôi hiểu ngay nền Phật học suy tàn ở miền Bắc.

Thăng Long đất khởi phát huy hoàng nền Phật giáo Lý Trần, đất Chấn hưng Phật giáo năng động vào những năm 30 với nhiều nhà học Phật uyên thâm như Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, Trần Trọng Kim, Nguyễn Trọng Thuật, v.v… thế mà nay giới học giả Hà Nội viết về đạo Phật như một tư tưởng yếm thế, tiêu cực, lỗi thời. Có đôi chỗ tôi không đồng ý với ông Hà Văn Tấn về từ ngữ và thuật ngữ Phật giáo qua bản ông dịch thần chú Phật đỉnh tôn thắng đà la ni, nên tôi viết như một lời đối thoại về Phật học với giới học giả Mác xít miền Bắc trong chương 5 sách Nguyễn Trãi,.

Chị hỏi bây giờ Nguyễn Trãi thời đại này phải làm cái gì ? Tôi không là Nguyễn Trãi để trả lời. Chỉ tin quyết rằng, nếu chúng ta chịu sống lại cái sống của tiền nhân ở những giai kỳ sinh mệnh đất nước treo trên sợi chỉ mành, sống như người Tàu xưa kia đêm nằm giường gai, mỗi sáng ra nếm mật để nuôi chí, tất biết phải làm gì trong hiện tiền một cách sáng tạo thay vì tụ thủ bàng quan hay đi làm đầy tớ cho ngoại bang.


Xem trọn vẹn bài phỏng vấn
và các tài liệu hình ảnh ở đây
 http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi5.htm


43. Lê Thị Huệ: Nói về Nhất Hạnh, hình như ông
có thời gian rất thân với Thích Nhất Hạnh ?


Võ Văn Ái : Vâng, chúng tôi ăn chung mâm, ở chung nhà, cùng chung hoạt động trên thế giới cho hòa bình Việt Nam  - nền hòa bình dân tộc không cộng sản –  từ năm 1966 đến 1970. Nhưng chúng tôi biết và quen nhau từ đầu thập niên 50 ở Đà Lạt. Thời ấy tôi dạy tại trường Trung học tư thục Tuệ Quang ở Cây số 4 do thầy Thiện Tấn, là anh trai của ông, làm hiệu trưởng.

Bi kịch của Nhất Hạnh là suốt đời ông đi tìm đệ tử, nhưng không tìm con người tự do.

Ông là người hiền lành, tình cảm, nhiều thi tính, tuy độc tài ngầm, bị tham vọng và thanh danh làm hỏng. Phải chăng đời không nương chìu khi còn bé nên biến ông thành con người không giải thoát, nếu không nói là con người hằn thù (l’homme de ressentiment).

Tôi đoán thế do nhận xét hai sự kiện. Một là ông rất thương mẹ, nhưng lại chủ tâm biến mẹ thành thánh mẫu trong giới tay chân thân cận. Chắc có gì bí ẩn trong gia đình thuở thiếu thời chăng ? Việc thứ hai xẩy ra vào cuối thập niên 40, thời ông là học tăng tại chùa Bảo quốc, Huế. Chẳng biết phạm lỗi gì rất nặng, nên bị đuổi ra khỏi chùa.

Cố Hoà thượng T.T. gửi thư đến các chùa từ miền Trung vào tới Nam ra lệnh cấm không được chứa chấp ông. Thế nhưng ông vẫn giữ bộ áo tăng sĩ, không ra đời. Tôi nghĩ những hành động đi riêng sau này của ông đối với Phật giáo Việt, phải chăng là một cách “trả thù” sự ép chế trước kia ?

Giữa lúc chiến tranh ngút ngàn năm 1966, ông rũ tôi lập một “Giáo hội Trẻ” chống lại “các ông già” trong nước. Tôi khuyên ông không nên, phải lo giải quyết chuyện chiến tranh trước đã. Kéo dây động rừng sẽ làm tan nát Phật giáo vào lúc Cộng sản Bắc Việt uy hiếp miền Nam. Nên chuyện bỏ qua.

44. Lê Thị Huệ: Who is Nhất Hạnh ?  Xin lỗi tôi phải dùng tiếng Anh ở đây để phản ảnh vai trò bệ vệ quốc tế của Thích Nhất Hạnh

Võ Văn Ái : Ông là một nhà thơ, một nhà văn. Nghệ sĩ tính của ông mạnh hơn tính đạo sĩ. Đạo sĩ chỉ là khía cạnh trình diễn cải lương của ông ấy.
 
45. Lê Thị Huệ: Vụ xung đột giữa ông và ông Nhất Hạnh, ông có nghĩ là đời sống đã không công bằng với ông và với ông Nhất Hạnh ?

Võ Văn Ái : Có những lúc chúng tôi thấy cùng nhau đồng hành về một hướng trên quan điểm Phật giáo và dân tộc. Rồi đến lúc, cũng từ quan điểm Phật giáo và dân tộc, tôi không thể đồng hành với ông ấy nữa. Giản dị thế thôi. Tôi chia tay ông đầu năm 1970, sau 6 năm chia sẻ ngọt bùi. Không có xung đột. Đường ai nấy đi, tôi sòng phẳng và nói thẳng lý do với ông khi chia tay.

 Ông ấy biết rõ hơn ai về sự trao đổi lần cuối này vào một đêm tháng giêng năm 1970. Bài thơ đánh dấu sự chia tay ấy là bài “Nhật ký băng sa mạc Bắc Mỹ Châu” (đại khái thế, không chắc tôi nhớ đúng các chữ trong đề bài) đăng trên Tạp chí Văn ở Saigon năm ấy.

Đọc lên chẳng ai biết chuyện riêng giữa chúng tôi đâu. Mặt khác tôi chưa hề công khai hóa việc này, ngoại trừ bức thư xin từ chức tôi gửi về Viện Hoá Đạo trong nước. Vì vậy tôi nói không có xung đột. Tuy nội tâm tôi khủng hoảng dữ dội. Trên phạm vi tư tưởng, tôi bị khủng hoảng hai lần. Năm 1955, tôi phát hiện người Cộng sản phục vụ Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh chứ không tranh đấu cho dân tộc. Lần này, 1970, niềm tin của tôi vào giới Tăng lữ bị khủng hoảng mà Nhất Hạnh là đại biểu.

Cuộc chia tay giữa bằng hữu, bỏ đạo này theo đạo khác, chọn ý thức hệ này bỏ ý thức hệ kia là hành trình tự giác hay chọn lựa từng đời người. Chuyện bình thường. Vợ chồng khắn khít còn ly dị kia mà. Gần đây, nhân chuyến ông về Việt Nam, hai chúng tôi có lúc trở nên như to chuyện là vì các đệ tử cuồng tín của ông ấy do không hiểu nguồn cơn nên vọng động. Họ không hiểu rằng, từ năm 1970, Nhất Hạnh là đám mây đen đã bay mất trong đời tôi. Do không hiểu có người gán cho tôi hai chữ « phản thầy ».

Tôi không hề là đệ tử của Nhất Hạnh thì sao gọi « phản thầy ». Mà phản gì ? Bất đồng ý kiến thì chia tay như thường xẩy trong xã hội dân chủ. Đã lâu, tôi không còn nghĩ tới ông ấy. Tuy nhiên sự biến bất ngờ xẩy ra khi ông và bà Phượng rời phi trường Charles de Gaulle lên đường về Hà Nội. Bỗng dưng bà Phượng, tức Chân Không, tuyên bố một câu xanh rờn với hãng thông tấn AFP liên quan tới Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) khiến tôi phải phản ứng.

Lời tuyên bố của bà Chân Không được bản tin AFP phát hành chiều ngày 11.1.2005 có đoạn viết rằng : "Nhà sư (tức Sư Ông Thích Nhất Hạnh) không là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là Giáo hội đang bị chính quyền cấm không cho hoạt động từ năm 1981, vì Giáo hội này từ khước sự kiểm soát và điều khiển của Đảng Cộng sản.

Hơn một năm trước đây, Công an Việt Nam đã mở cuộc đàn áp sâu rộng Giáo hội này, hàng giáo phẩm bị bắt quản chế và hàng trăm ngôi chùa bị phong tỏa. Khi được hỏi vì sao một số phong trào tôn giáo bị cấm đoán tại Việt Nam, Sư cô Chân Không trả lời : "Vì một số các Giáo hội này tàng trữ những lá cờ của chế độ cũ (sic). Còn chúng tôi, thì chúng tôi chẳng có một tham vọng chính trị nào cả".

Hai ngày sau tại Hà Nội, ông Nhất Hạnh tuyên bố trên báo Nhân Dân phát hành ngày 13.1.2005, rằng : "Ông đã từng đấu tranh với những thái độ căng thẳng của chính quyền một số nước phương Tây về "vấn đề tôn giáo ở Việt Nam". Ông kể, ông đã từng nói với một số quan chức Hoa Kỳ rằng : "Người Việt Nam muốn được giải phóng khỏi cái mà người Mỹ gọi là sự giải phóng cho người Việt Nam".


Quý vị xem trọn vẹn bài phỏng vấn
và các tài liệu hình ảnh ở đây:
 http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi5.htm


Ỷ Lan
50. Lê Thị Huệ: Ỷ Lan, một người khá đặc biệt gây tò mò cho người Việt Hải Ngoại khi cô xuất hiện cạnh Võ Văn Ái. Ông có thể cho biết ông đã gặp người thiếu nữ "tóc vàng sợi nhỏ " ấy thế nào ?






Võ Văn Ái
: Cuối năm 1967 tôi được mời đi thuyết trình qua một số thành phố tại Anh quốc nói về lập trường hoà bình của Phật giáo Việt Nam, một nền hoà bình không Cộng sản. Tại cố đô York, sau khi cuộc thuyết trình kết thúc một cô sinh viên đến hỏi tôi : Tôi muốn về Việt Nam một năm giúp cho người dân Việt trong bất cứ vấn đề gì, ông có thể giúp tôi về Việt Nam không ? Tôi trả lời đại khái là về Việt Nam phức tạp lắm do tình hình chiến tranh.

 Cô vào các làng quê là nơi người dân cần sự giúp đỡ, có thể sẽ bị người ta nghi ngờ cô là người của CIA, khó cho cô thực hiện thiện chí của mình. Cô hỏi lại : Thế thì tôi có thể làm gì hữu ích cho hoà bình Việt Nam ? Ở nước Anh, sinh viên có quyền lấy một năm nghỉ đi nghiên cứu (sabbatical year), tôi có thể giúp ông một năm. Tôi đề nghị cô qua Paris làm thư ký cho Văn phòng Phật giáo do tôi điều hành trong nhiệm vụ thông tin quốc tế về vấn đề Việt Nam và Phật giáo.

Thư của tổ chức Quaker mời đến nghe tôi thuyết trình, trên đây tổ chức tại thành phố Bradford, 25.9.1967


Thư của tổ chức Quaker mời đến nghe tôi thuyết trình, trên đây tổ chức tại thành phố Bradford, 25.9.1967

Mùa thu năm 1968, khi năm học kết thúc, cô Penelope Faulkner, sau này lấy tên Ỷ Lan, sang Paris làm thư ký ở Văn phòng Hội Phật tử Việt Kiều Hải ngoại, là hội do tôi thành lập năm 1963 và có 11 chi bộ tại các nước Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Cam Bốt và Hoa Kỳ. Tổ chức Quaker nước Anh tài trợ cho cô một năm kinh phí. Trước khi sang Paris, cô đi làm công cho một hãng sản xuất Chocolat ở York để lấy tiền mua vé tàu.

Khởi sự như thế với dự tính giúp việc một năm không lương. Không ngờ chiến tranh Việt Nam ngày càng khốc liệt, tình hình quốc tế với sự phát triển của phe phản chiến do Liên Xô điều động, cộng thêm cảm tình đặc biệt cô dành cho văn hoá Việt, Ỷ Lan quyết định ở lại Pháp làm việc không lương. Và không ăn một đồng lương nào từ đó đến nay. Cô bỏ đại học Cambridge, ghi tên vào Trường Đông phương Sinh ngữ ở Paris vừa đi học vừa giúp chúng tôi.

Trong một câu hỏi trước đây tôi kể chuyện khó khăn tại nhà in vì sự phá hoại của một người bà Cao Ngọc Phượng gửi từ Saigon qua giúp chúng tôi. Sau này anh ta (CB/PTN) phá hoại toàn bộ máy móc nhà in rồi bỏ đi với tính toán là chúng tôi sẽ sạt nghiệp nơi xứ lạ quê người. Ỷ Lan đã tận tâm giúp chúng tôi trong cơn nguy khó, cô cũng xông xáo học nghề, đứng máy, lao tâm lao lực với chúng tôi để vực dậy một nhà in bị phá hoại. Tiền mua nhà in và máy móc phải vay nợ các bà phú gia người Việt ở Paris tiền lãi 4 phân mỗi tháng ! Do vô sản, nên các ngân hàng không cho chúng tôi vay.

51. Lê Thị Huệ: Ông có thể khai triển rõ hơn
về phe phản chiến do Liên Xô điều động ?


Võ Văn Ái : Trong thế giới có những phong trào này phong trào kia phát động. Nhìn từ ngoài là sự tự phát, nhưng từ cơ bản đa số do các khuynh hướng chính trị hay đảng phái giật dây. Phong trào phản chiến hay phong trào hòa bình hồi đó cũng vậy. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam thời ấy, Hà Nội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn, nên Liên Xô thông qua các đảng Cộng sản địa phương ở Âu châu phát động rầm rộ một phong trào rộng lớn ủng hộ cho « Hoà bình Việt Nam ». Nói là hoà bình Việt Nam, nhưng kỳ thực là ủng hộ cuộc chiến tranh do Hà Nội chủ suý. Phe Cộng sản quốc tế bỏ tiền mua các cơ quan truyền thông, báo chí, kích động các phong trào quần chúng, đặc biệt giới sinh viên đại học xuống đường kêu gọi “Hoà bình chống Mỹ”.

Đối diện với phong trào hoà bình lớn rộng thiên Hà Nội này, Việt Nam Cộng hòa bỏ ngỏ sân chơi cho phe cộng sản. Chúng tôi là tổ chức Việt Nam không cộng sản duy nhất lúc bấy giờ thông tin cho thế giới được biết thực tại Việt Nam không như Hà Nội tuyên truyền rằng chỉ có hai phe đen trắng. Một bên là « toàn dân » tranh đấu giành độc lập, hoà bình, mà Mặt trận Giải phòng Miền Nam là phong trào tự phát của « nhân dân miền Nam » ; một bên là đế quốc Mỹ xâm lược.

Nếu tôi không tình cờ đến thuyết trình tại York, thì có thể Ỷ Lan đã thành một Jane Fonda Anh quốc. Từ đó suy ra, phe dân tộc đã mất biếu bao bạn bè quốc tế có thể giúp đỡ cho việc đề cao lý tưởng tự do, nhân quyền, dân chủ?!

Công tác vận động quốc tế của chúng tôi lúc bấy giờ là nói lên chủ trương hoà bình không Cộng sản (không theo Hà Nội) của Phật giáo và nhân dân miền Nam. Có thể nói thành quả hoạt động của chúng tôi đã chận đứng việc Hà Nội và Liên Xô thu tóm và biến tướng tất cả mọi phong trào ủng hộ Việt Nam trên thế giới trở thành công cụ cho cộng sản.

Do đó, phong trào Hoà bình thế giới đã phân đôi, một phe ủng hộ cho Miền Nam, một phe theo Hà Nội. Vì vậy Hà Nội và Mặt trận Giải phóng Miền Nam phản ứng mãnh liệt chống phá chúng tôi. Tôi còn nhớ lần đầu tiên bà Nguyễn Thị Bình gặp mặt các tổ chức Hoà bình Âu Mỹ tại Nam Tư (lúc này Mặt trận chưa có cơ sở ở Tây Âu) bà ta vu cáo tôi là « nhân viên CIA » (sic) để các tổ chức này xa lánh tôi. Từ đó, các cuộc biểu tình hay thuyết trình cho Việt Nam tại Châu Âu, Hà Nội và Mặt trận tìm cách ly gián để ban tổ chức không mời chúng tôi. Nhưng họ đã thất bại vì đa số các tổ chức hoà bình trong thế giới không theo cộng sản. Mặt khác một số các tổ chức này đã biết hoạt động tôi từ trước nên không mất lòng tin.

Năm 1966, lần đầu tiên có cuộc Hội nghị các phong trào Hoà bình cho Việt Nam tại Stockholm ở Thuỵ Điển. Khi phái đoàn Hà Nội và Mặt trận được mời, thì họ bảo nếu có Võ Văn Ái họ sẽ không dự.

Đó là tính chất độc tài của Hà Nội trên trường quốc tế. Tôi cũng từng chứng kiến tính chất độc tài đảng trị ấy ngay giữa người Việt với nhau tại Paris tự do. Nhớ mãi Tết năm ấy đi xem buổi trình diễn của họ ở hội trường Maubert. Vừa in xong báo “Tin Tưởng” Tết của hội Phật giáo chúng tôi, tôi mang theo 3 tập để tặng cho các bạn sẽ gặp. Nhưng khi vào cửa bọn họ tịch thu 3 tờ báo ngay tức khắc với thái độ muốn hành hung vì đồ cho tôi mang tài liệu phản động, mặc tôi giải thích, phản đối thế nào ! Đáng chú ý là sự kiện này xẩy ra vào lúc Hà Nội vung vít tung chiêu bài “hoà hợp hoà giải” thông qua Mặt trận Giải phóng Miền Nam nhằm thu hút những người Việt chân thật.

Cư xử tàn nhẫn với báo chí, văn nghệ sĩ ở hải ngoại thập niên 60 như thế. Nhưng khi cần lợi dụng hay bóc lột văn nghệ sĩ, họ vẫn “tự nhiên như người Hà Nội”. Thành ngữ này do dân miền Nam đặt ra, phản ứng chính sách “vào, vơ, vét, về” của cán bộ, bộ đội miền Bắc sau năm 1975. Tôi nhớ đến trường hợp của danh hoạ Lê Phổ.

Anh Lê Phổ thuộc lớp hoạ sĩ đàn anh theo học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thành lập năm 1925 do Hoạ sĩ người Pháp Victor Tardieu làm Hiệu trưởng, mở đầu cho nền hội hoạ tân thời Việt Nam. Đầu thập niên 30 anh sang Pháp dự Đấu xảo Mỹ thuật Đông Dương rồi ở luôn không về.

Năm 1984 nhân đến thăm anh Lê Phổ, tôi viết bài “Hoạ sĩ Lê Phổ, Người vẽ Nắng” đăng trên Giai phẩm Quê Mẹ Xuân Giáp Tý (sau này Gió-O cho đăng lại). Bài này gây chấn động giới Việt kiều tại Pháp, vì ai cũng tưởng anh ấy mất từ lâu. Mấy năm sau bài viết này, Hà Nội gửi một hoạ sĩ sang gặp thăm anh Lê Phổ. Họ tiếp cận thân nhân anh ấy còn ở Hà Nội thúc đẩy liên lạc với anh, rồi sang Paris thăm anh. Từ từ cho người trong chính quyền đến xin anh tặng tranh cho Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia ở Hà Nội.

Anh Lê Phổ gọi điện thoại hỏi ý kiến tôi. Tranh Lê Phổ từ nhiều thập niên nổi tiếng ở Pháp, đặc biệt ở Hoa Kỳ. Thời ấy anh cho tôi biết mỗi năm anh chỉ vẽ chừng 20 bức, vì tuổi cao, sức khoẻ yếu. Vẽ xong bức nào là các Galeries Mỹ đến chở đi ngay. Tuỳ theo kích thước, giá tranh mỗi bức bán từ 20 đến 40 nghìn Mỹ kim. Lâu sau có dịp thăm nhau tôi hỏi vụ tặng tranh đi đến đâu. Anh bảo nhà nước Việt Nam còn độc tài và vi phạm nhân quyền nên anh không muốn tặng. Tuy nhiên anh dặn gia đình ngày nào Việt Nam thanh bình, dân chủ sẽ gửi về tặng 20 bức.

Đấy, khi cần thủ lợi, người Cộng sản tiếp cận, chăm lo, thoa vuốt đủ điều. Nhưng chính sách bóp nghẹt tự do sáng tạo, xài xể hay đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức vẫn không thay. Trong bài báo nói trên, anh Lê Phổ cho biết năm 1946 lúc Phạm Văn Đồng sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau, anh rất hăm hở, phấn khởi trước khí thế giành độc lập, tự do cho nước nhà.

Dù còn hàn vi, anh Lê Phổ đã hội họp anh em tại xưởng vẽ của anh, với các bạn như Nguyễn Quốc Định, Nguyễn Mạnh Đôn, Trần Hữu Tước …, mời Phạm Văn Đồng đến dùng cơm tâm sự để cùng nhau hợp tác cứu quê hương. Nhưng anh đã thất vọng lánh xa, khi tin từ Hà Nội sang cho biết Việt Minh chẳng yêu nước gì đâu, nhóm ông Hồ và Cộng sản giết người, thanh toán phe quốc gia rất dữ. Chỉ riêng bạn đồng song của anh là hoạ sĩ Mai Thứ bị lừa theo giúp Hà Nội. Mãi sau này mới mở mắt thì đã muộn.


52. Lê Thị Huệ: Có một Nguyễn Thái Học và Cô Giang đi làm cách mạng đã đi vào huyền thọai trong đất nước Việt Nam. Và bây giờ tôi đang thấy có một một đôi tài tử khác là Võ Văn Ái và Ỷ Lan lao theo một cuộc đấu tranh Nhân Quyền cao đẹp trên chính trường quốc tế ở bên ngòai Việt Nam.  Có vẻ như cô Ỷ Lan là một đồng chí cùng với ông đi đấu tranh Nhân Quyền trong thời gian qua. Một cặp đôi tình nhân chính trị khá đẹp, Võ Văn Ái và Ỷ Lan. Ở ngoài nhìn vô thấy đẹp nhưng liệu người trong cuộc có thể tiết lộ đẹp ở những điểm nào trong cuộc tình chính trị ấy ?

Võ Văn Ái : Người bên trong là tôi thấy rằng trong thời gian chiến tranh hai thập niên 60, 70, phe quốc gia đã thua phe cộng sản trong việc vận động công luận quốc tế, vận động các nhà báo, nhà văn, sinh viên, giáo sư, trí thức, nhân sĩ Âu Mỹ, biến họ thành bạn bè quốc tế phục vụ cho lá bài cộng sản Hà Nội.

Ỷ Lan là người bạn quốc tế không mắc mưu ấy. Chị dâng trọn thanh xuân và đời chị cung hiến cho Việt Nam tự do, mà chẳng hề đòi hỏi tiền bạc, quyền lợi hay bất cứ điều kiện chi. Nào khác chị phục vụ cho chính quê hương chị. Sự tham gia này là biểu tượng thành công của phe dân tộc chúng ta. Nếu cộng động người Việt hải ngoại gia tăng những trường hợp Ỷ Lan như thế, tôi nghĩ đây sẽ là một yếu tố giúp thêm cho vận nước mau tới hồi thái lai. Ít nhất cũng trên phương diện vận động quốc tế và giữ lửa người đồng bào.

Tôi nhận xét đi đến đâu người Việt cũng thương mến và quý trọng Ỷ Lan, họ tự hỗ thẹn không làm gì khi một người ngoại quốc xum lo cho nước Việt. Họ cho chuyện tôi tranh đấu là việc tự nhiên, họ chẳng lý tới bao nhiêu. Song Ỷ Lan, là một kỳ công, tuyệt tác. Đây là yếu tố giữ lửa đấu tranh mà cộng đồng người Việt hải ngoại không nên khinh suất.


Suốt ba mươi bốn năm qua cùng với Cộng đồng Người Việt Tị nạn, Ỷ Lan, một người ngoại quốc đứng ở tuyến tiền tiêu tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ Việt Nam, từ chiến dịch « Một Chiếc Tàu cho Việt Nam » năm 1978, đến vụ kiện Hà Nội vi phạm nhân quyền tại LHQ ở New York năm 1985, và hàng nghìn động thủ khác…

 Người ngoại quốc ấy đứng trong bóng tối bao nhiêu năm dài, kiên nhẫn làm việc nhỏ ở văn phòng, lái xe đưa đón hàng nghìn lượt người tị nạn đến Pháp đi làm giấy tờ hội nhập hay hội họp, suốt bao năm ròng cùng với chúng tôi đứng trong xưởng in tối, lạnh, không lò sưởi đến ba, bốn giờ sáng ở Gennevilliers, vùng ngoại ô Paris, sắp chữ chì (typo) các bản in và chạy máy để cứu sống một tập thể tị nạn, kiên nhẫn học tiếng Việt hầu chia sẻ với đa số Người Vượt Biển không nói tiếng Pháp. Chị tập viết tiếng Việt, trở thành nhà văn Việt với tập truyện « Quê Nhà » in tới lần thứ 9.

Tập truyện này là một thành công đóng góp vào nền văn chương Việt hải ngoại mà lại do người ngoại quốc viết. Quê Nhà gồm 19 truyện chị viết và đọc trên đài BBC phát thanh về Việt Nam giữa thập niên 80, thập miên địa ngục của người Việt trong nước, mang lại những tia hy vọng và niềm tin cho biết bao người ở mọi tầng lớp nhân dân cùng khốn, cũng như những người tù trong các Trại Cải tạo. Sau này tù nhân chính trị được trả tự do ra nước ngoài và các vị HO cho chúng tôi biết sự thật này.



Bìa sách Quê Nhà của Ỷ Lan, in lần thứ 9                               
Đặc biệt vào giai đoạn nhà in của chúng tôi ở Gennevilliers bị tịch biên gia sản vào năm 1982 vì lo cho con tàu đi vớt Người Vượt Biển nên bỏ bê công ăn việc làm, Ỷ Lan đã chung chịu khổ nạn, đói cơm với chúng tôi. Chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” bị Hà Nội bêu riếu phá hoại, lạ thay một số người gọi là “quốc gia” cũng chỉ trích, gièm pha, phá hoại.Một ký giả gọi là “quốc gia” ở Paris cùng với nhóm ông ta phao tin và “cung cấp tài liệu” cho tạp chí cực hữu Minute viết bài vu cáo tôi “lấy tiền con tàu bỏ túi”.  Bọn người vu cáo không biết rằng tôi chỉ là người phát động chiến dịch và phụ trách việc vận động truyền thông quốc tế, các bạn Pháp trong Uỷ ban mới là người nắm giữ tiền bạc, thủ quỹ  (Chủ tịch Uỷ ban là Nhà văn nữ Claudie Broyelle, Thủ quỹ là bà François Gautier)

Báo “chống cộng” Văn Nghệ Tiền Phong ở Hoa Kỳ viết bài “Con Tàu Ma” bôi nhọ. Tất cả đều “cầu nguyện” theo cách họ cho Con Tàu không thể ra đời ! Chúng tôi phải nỗ lực hết mình để con tàu xuất hiện trên biển Đông. Vì vậy, tất cả thợ thầy trong nhà in cùng với tập thể Quê Mẹ lăn xả ngày đêm cho chiến dịch, nên bỏ bê khách hàng.

 Khi truy tố báo Minute vu cáo vô bằng ra toà án Paris, chúng tôi phải mất nhiều tháng ròng để dịch các tư liệu, làm kết toán các chương mục, từ chương mục Con Tàu, chương mục Nhà in đến chương mục riêng trình toà. Không tả hết những phiến toái, khó khăn. Chúng tôi đã thắng kiện, dù theo điệu con kiến kiện của khoai. Vì tuần báo cực hữu Minute rất giàu, còn chúng tôi chỉ là « người nô lệ da vàng » sống vô gia cư thác vô địa táng.


Xem trọn vẹn bài phỏng vấn
và các tài liệu hình ảnh ở đây
 http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi5.htm


56.  Lê Thị Huệ: Chỉ nhân đây muốn hỏi ông một điều, tôi thấy thế giới này bị tan tành và chậm lụt bởi các nhóm Tôn Giáo ghê quá. Làm sao ông có thể thuyết phục tôi là tôn giáo mang lại cho trái đất niềm hạnh phúc và sự tiến bộ.

Võ Văn Ái : Chị nói “các nhóm tôn giáo” tức muốn đánh đồng mọi tôn giáo, cho rằng mọi tôn giáo có chung phạm trù. Thực tế không phải vậy. Sự tiếp cận con người và tâm linh mỗi tôn giáo mỗi khác. Bối cảnh xã hội và văn hóa nơi phát xuất ra các tôn giáo cũng khác nhau. Nhưng dù sao đại quan có hai nhánh tôn giáo thần quyền, và phi thần quyền.

Đúng phải viết Tông giáo. Do húy kỵ tên các vua chúa triều Nguyễn, nên chữ tông đọc trại ra tôn. Tông giáo là từ người Nhật dùng để dịch chữ religion của Tây phương. Tông là môi giới giữa hai thực thể. Chữ tổ tông ta thường nói, thì tổ là đầu tiên, tông là cầu nối tiếp theo. Religion / Tông giáo của Tây phương là cơ sở nồi liền con người với Thượng đế (vật chủ). Cho nên Tông giáo chỉ cho thần giáo.

Phật giáo không là tôn giáo hiểu theo ngữ nghĩa Tây phương. Phật giáo không thần quyền. Phật không là Thượng đế, mà chỉ là đạo sư chỉ đường giải phóng nhân sinh ra khỏi vô minh, đau khổ, phát huy trí năng thành Trí tuệ Bát Nhã nhằm thực hiện cuộc giải phóng tối hậu  - Giác ngộ. Hình tượng thường được nhắc nhở để giải thích Phật giáo : Chân lý là mặt trăng, Phật là ngón tay chỉ nẻo mặt trăng cho nhân sinh. Chớ đánh lầm ngón tay với mặt trăng.

Thiển kiến tôi, cái xấu, cái sai lầm cho đến cái ác của tôn giáo là do tín đồ của tôn giáo ấy gây tạo ra.

“Làm sao ông có thể thuyết phục tôi là tôn giáo mang lại cho trái đất niềm hạnh phúc và sự tiến bộ ?” - Thưa chị, thuyết phục là tuyên truyền, truyền giáo, cải đạo. Không ai thuyết phục được ai trên trái đất này. Con người đáo để chẳng vừa đâu. Đa số họ giả vờ đấy thôi. Mặt khác, mỗi người tự tìm lấy cho mình con đường giải phóng khỏi nhân sinh khổ lụy để thăng tiến đời sống tinh thần, tâm linh, trí tuệ siêu việt. Khi con người chí thành, không đạo đức giả, mọi sự tốt đẹp nẩy nở. Nói về kiến giải tâm linh, hẳn nhiên có nhiều cấp độ hay phương pháp. Tỉ như đứng trước một con bệnh, các y sĩ cho những toa thuốc khác nhau. Song trong các toa thuốc này duy nhất sẽ có một thần dược. Vấn đề là chọn cho ra thần dược.

Truyền thống Hy Lạp dạy lý luận, Thiên chúa giáo dạy phải tin gì. Đây là tình trạng lưỡng đầu muôn thuở. Thiền Phật giáo quét sạch tất cả mọi khái niệm.

Tôn giáo Tây phương chủ súy thần quyền. Đông phương gọi tôn giáo là Đạo, tức con đường. Nơi rừng rậm, đất hoang, chưa có con đường thì đôi chân con người phát quang mà đi. Lâu thành đường.

Như trên tôi đã phát biểu một cách đơn thuần, rằng : “Đạo, như đạo Phật, là hiện thực sống trọn vẹn cuộc đời mình như một tồn tại toàn diện mới mẻ và giúp người khác phục hồi cái toàn diện của họ”.

Thông qua tôn giáo, con người xã hội hoà nhập như nhiên để gột rửa sự vong tính. Tin hay không là quyền-thượng-đế-của-chị.

Tiếp cận tôn giáo phần nào như tiếp cận thi ca. Thử lấy một câu thơ trong bài Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh để suy gẫm. Cùng với Màu Thời Gian của Đoàn Phú Tứ, đây là một trong những bài thơ đẹp lạ của Nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Nhóm gồm Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát, mang tham vọng “Trí thức – Sáng tạo – Đạo đức, nối liền nguồn gốc xưa với những ước vọng nay” không được tiếp đón nồng hậu vì xuất hiện vào thời tao loạn Thế chiến thứ hai rồi cận kề cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945.

Bài thơ của Nguyễn Xuân Sanh bị chê là “bí hiểm, hủ nút, nội dung rỗng tuếch theo điệu Dadaïsme, Surréalisme của Pháp”. Hủ nút hay không, bí hiểm hay không còn tuỳ ở trình độ thẩm thấu thơ của người đọc thơ . Đang lúc có nhiều người yêu thích hay được đọc nhan nhản những bài thơ Đường luật chỉnh tề trên báo chí, hiển nhiên người đọc thấy xa lạ với Buồn Xưa nên ít ai muốn ghé mắt.

Đọc câu tôi trích trước đây : “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”, trong bài Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh, ta cảm được gì ? Trước tiên là nhịp thơ cuồn cuộn của sông biển theo viễn trình nơi lòng dĩa vốn lũng đọng. Nhịp sông biển (hải hà) tưởng tuyến tính như sông trôi, bỗng quay vòng hướng mùa đi từng nhịp bốn : Xuân, Hạ, Thu, Đông.

 Hoá ra cái ta tưởng là thầm lặng, tĩnh mịch và co kín của đáy dĩa vẫn mang sức chuyển động theo cung điệu mùa màng. Mùa thả vào đấy từng đợt quả thơm mùi vị đất trời. Một dĩa trái cây thay đổi xuyên năm. Không đơn điệu, buồn chán như bức tranh tĩnh vật.

Tả một dĩa trái cây thay đổi theo mùa như cuộc nhân sinh tươi thắm, vồn vã dâng người, thế là khéo. Thấy và hiểu câu thơ như vậy khiến ta thêm yêu thơ, muốn đi vào thơ nắm bắt những ý nhị hàm tồn còn dung dưỡng.

Tôn giáo cũng vậy. Thoạt tưởng kỳ bí, cao kỳ, xa cách với cuộc đời náo nhiệt. Nhưng khi biết rằng tôn giáo tiếp giáp với hơi thở tồn sinh đưa ta tới những bến bờ không tạm bợ, làm sáng rỡ hồn tâm, hẳn ta sẽ thấy tôn giáo thực hữu, cần thiết như những bài thơ kia kéo ta ra khỏi chốn phù trầm.

 
Lê Thị Huệ: Cám ơn nhà thơ Thi Vũ, nhà Tranh Đấu Nhân Quyền Võ Văn Ái đã đặc biệt dành cho gio-o cuộc phỏng vấn lịch sử và độc đáo này


Xem trọn vẹn bài phỏng vấn
và các tài liệu hình ảnh ở đây
 http://www.gio-o.com/LeThiHuePhongVanThiVuVoVanAi5.htm


 -----

DAI PHAT GIAO VIET NAM

 

Chuong trinh thu Sau 26.2.2010 tuan nay xin moi nghe Loi Chuc Tet tu Hoa Ky cua Dai lao Hoa thuong Thich Chanh Lac, Pho Vien truong Vien Hoa Dao, tu Saigon cua Thuong toa Thich Vien Dinh. Pho Vien truong Vien Hoa Dao, va tu Na Uy, Bac Au cua Hoa thuong Thich Tri Minh, Tong Uy vien Dac trach Lien lac Au chau, Van Phong II Vien Hoa Dao, GHPGVNTN  &  Dac biet Ky gia Y Lan phong van Luat su Scott Johnson tu thanh pho Perth, Uc Dai Loi, tac gia bai viet « Tran chien am tham chong Phat tu hai ngoai cua Ha Noi », xin bam vao duoi day de nghe, truong hop khong co co hoi nghe truc tiep tren Dai Phat giao Viet Nam phat thanh ve trong nuoc vao luc 19 gio 30 (gio Viet Nam) tren lan song 19 thuoc :

 

Bam vao duoi day de tim nghe chuong trinh thu Sau nay :

http://daiphatgiao.free.fr/listen/2010-02-26.html

 

Bam vao day de thu thanh chuong trinh nay (Save Target As) :

http://daiphatgiao.free.fr/radio/2010-02-26.mp3

 

Neu co van de, kinh xin cho Phong Thong tin Phat giao Quoc te biet de chi dan bo tuc. Phong Thong tin Phat giao Quoc te rat mong duoc chu Ton duc va quy liet vi don nghe va gop y de cong cuoc truyen thong ngay mot thang tien.

PTTPGQT

 

De theo doi chuong trinh tu dau, xin moi quy Thinh gia vao dia chi :

 

http://daiphatgiao.free.fr

de chon nghe cac chuong trinh

 

Dac biet xin moi nghe Chuong trinh “The Gioi Ung Ho Chung Ta” de theo doi su hau thuan cua cong luan the gioi va chinh gioi quoc te doi voi Viet Nam va Giao hoi Phat giao Viet Nam Thong nhat. Chuong trinh nay bat dau tu ngay 14.7.2006 va lien tuc trong nhieu tuan le sau do. Chuong trinh khoi su la :

 

Bam vao duoi day de tim nghe chuong trinh thu Sau nay :

http://daiphatgiao.free.fr/listen/2006-07-14.html

 

Bam vao day de thu thanh chuong trinh nay (Save Target As) :

http://daiphatgiao.free.fr/radio/2006-07-14.mp3

 

Ra doi tu nam 2005, Dai Phat giao Viet Nam phat thanh tu hai ngoai moi tuan mot lan vao ngay thu Sau, tu 19 gio den 19 gio 30, gio Viet Nam, tren lan song 19 thuoc.

 

Dai Phat giao Viet Nam la tieng noi cua nhung Phat tu phai song xa que vi nhieu ly do, nhung trai tim chua ngung dap voi tieng dap que huong lam xanh rung, biec song tu bao doi.

 

Mot tieng noi vong tu nghin xua uu ai, va hom nay, vang dong nhung uu tu an lac, dan chu, nhan quyen va tu do ton giao.

 

Cau mong den tai quy thinh gia trong nuoc, lam nhip cau dan toc, de cung nhau trao doi cho tuong lai dat nuoc thanh binh va phat trien trong tinh nghia dong bao bi thieu vang 60 nam qua - do chinh chien va tranh chap y thuc he gay ra. Mong moi nhan duoc nhung y kien va tham gia cua quy thinh gia trong, ngoai nuoc. Thu tu xin quy vi gui ve:

 

Phong Thong tin Phat giao Quoc te

BP. 60063

94472 Boissy Saint Léger – France
Dia chi E-mail : daiphatgiao@free.fr

 

Quy thinh gia cung co the theo doi tin tuc tren Trang nha Que Me va Phong Thong tin Phat giao Quoc te : www.queme.net

  -----------------------
CHUONG TRÌNH RADIO PHẬT GIÁO

Chuong trinh thu Sau 17.7.2009 tuan nay xin moi nghe Chuong trinh ky niem le Tieu Tuong, mot nam Duc co Tang Thong Thich Huyen Quang vien tich, nghe lai tieng noi cua Ngai chuc Tet dong bao dau Xuan Mau Ty 2008, su ton vinh Ngai cua the gioi  &  nghe muc « Nhung van kien lich su cua Duc co Tang Thong Thich Huyen Quang », xin bam vao duoi day de nghe, truong hop khong co co hoi nghe truc tiep tren Dai Phat giao Viet Nam phat thanh ve trong nuoc vao luc 19 gio 30 (gio Viet Nam) tren lan song 19 thuoc :

Bam vao duoi day de tim nghe chuong trinh thu Sau nay :
http://daiphatgiao.free.fr/listen/2009-07-17.html

 
Bam vao day de thu thanh chuong trinh nay (Save Target As) : http://www.queme.net/radio/2009-07-17.mp3

Neu co van de, kinh xin cho Phong Thong tin Phat giao Quoc te biet de chi dan bo tuc. Phong Thong tin Phat giao Quoc te rat mong duoc chu Ton duc va quy liet vi don nghe va gop y de cong cuoc truyen thong ngay mot thang tien.

PTTPGQT

De theo doi chuong trinh tu dau, xin moi quy Thinh gia vao dia chi :
http://daiphatgiao.free.fr
de chon nghe cac chuong trinh

Dac biet xin moi nghe Chuong trinh “The Gioi Ung Ho Chung Ta” de theo doi su hau thuan cua cong luan the gioi va chinh gioi quoc te doi voi Viet Nam va Giao hoi Phat giao Viet Nam Thong nhat. Chuong trinh nay bat dau tu ngay 14.7.2006 va lien tuc trong nhieu tuan le sau do. Chuong trinh khoi su la :

http://daiphatgiao.free.fr/radio/2006-07-14.mp3

Ra doi tu nam 2005, Dai Phat giao Viet Nam phat thanh tu hai ngoai moi tuan mot lan vao ngay thu Sau, tu 19 gio den 19 gio 30, gio Viet Nam, tren lan song 19 thuoc. Dai Phat giao Viet Nam la tieng noi cua nhung Phat tu phai song xa que vi nhieu ly do, nhung trai tim chua ngung dap voi tieng dap que huong lam xanh rung, biec song tu bao doi.
Mot tieng noi vong tu nghin xua uu ai, va hom nay, vang dong nhung uu tu an lac, dan chu, nhan quyen va tu do ton giao.

Cau mong den tai quy thinh gia trong nuoc, lam nhip cau dan toc, de cung nhau trao doi cho tuong lai dat nuoc thanh binh va phat trien trong tinh nghia dong bao bi thieu vang 60 nam qua - do chinh chien va tranh chap y thuc he gay ra. Mong moi nhan duoc nhung y kien va tham gia cua quy thinh gia trong, ngoai nuoc. Thu tu xin quy vi gui ve:

Phong Thong tin Phat giao Quoc te
BP. 60063
94472 Boissy Saint Léger – France
Dia chi E-mail : daiphatgiao@free.fr

Quy thinh gia cung co the theo doi tin tuc tren Trang nha Que Me va Phong Thong tin Phat giao Quoc te :
www.queme.net



DAI PHAT GIAO VIET NAM

 

Posted on 15 Jan 2010
TOP
back to Audio FreeViet INDEX
...MORE COLLECTIONS

  • Giáo xứ Hà Đông + Việt cộng âm mưu cướp tài sản Công Giáo
  • Liên phòng PALTALK: Yểm trợ Khối 8406 bốn năm hoạt động kiên trì, gian nan
  • Lê Thị Công Nhân: một mũi tên, một thành trì!
  • Việt cộng phóng thích Linh mục Nguyễn Văn Lý!
  • Mục Sư Trần Thanh Vân: Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ chúc Tết Đồng Bào
  • Thủ tục Khiếu Tố các vi phạm Nhân Quyền tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc
  • Gs Nguyễn Chính Kết: Cuộc đấu tranh trong Nước hiện nay
  • Lê Thị Huệ phỏng vấn nhà hoạt động Thi Vũ Võ Văn Ái
  • Giáo xứ Đồng Chiêm: Việt Cộng đánh dân đổ máu, thương tích nặng
  • TS Nguyễn Xuân Nghĩa: Giờ Giải Ảo + Bên Kia Màn Khói
  • Ts Phan Văn Song: Tinh thần Đại Việt giữ nước và cứu nước
  • Ts Nguyễn Đình Thắng: Muốn thay đổi, phải hành động!


    Các Đài Phát Thanh Việt Ngữ
    hướng về Việt Nam:

    » VOA
    » BBC phát thanh từ Luân Đôn
    » RFI (Radio France Internationale)
    » RFA - Radio Free Asia
    » VERITAS - Chân Lý Á Châu
    » Đài Phật Giáo Việt Nam

    Các đài phát thanh từ Hoa Kỳ:

    » Radio Bolsa
    » Saigon Radio Hải Ngoại


    « FreeVietNews.com

  •  



      
      Services | © 2008 - 2024
    (1)