TÒA GIÁM MỤC XÃ ĐOÀI Nghi Diên - Nghi Lộc - Nghệ An Số 08.09 / TB.TGM ------------ --------- -
Xã Đoài, ngày 17 tháng 8 năm 2009
m THƯ CHUNG
Kính gửi : Quý cha, quý tu sỹ, chủng sinh và anh chị em giáo dân toàn giáo phận,
Thưa quý cha và anh chị em thân mến,
Sau 50 ngày xa giáo phận đi viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, triều yết Đức Thánh Cha, viếng thăm các Thánh Bộ, cám ơn các Hội, các ân nhân đã giúp đỡ giáo phận cũng như thăm hỏi con cái Vinh ở hải ngoại, tôi đã trở về giáo phận bình an.
Khi nâng lòng lên cảm tạ Chúa, tôi cũng xin cám ơn quý cha và anh chị em đã cầu nguyện cho tôi rất nhiều, nhờ đó tôi có thể chu toàn việc bổn phận của mình.
Vui mừng hơn nữa, khi trở về, tôi thấy quý cha cùng tất cả anh chị em hiệp thông với nhau cách sâu xa, nhất là từ khi vụ việc Tam Tòa xảy ra, mọi thành phần dân Chúa đã một lòng một ý xin Chúa ban cho giáo phận nói chung và Tam Tòa nói riêng mau vượt qua thử thách đau thương.
Dấu chỉ hiệp thông được thể hiện rõ nét nhất qua Thánh lễ mừng Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời - Quan thầy giáo phận.
Quả thật, chưa bao giờ giáo phận có một thánh lễ đông đúc như vậy. Chúng tôi vô cùng cảm động được biết có nhiều anh chị em giáo dân, sau khi vượt hàng trăm kilômét, đã phải tham dự Thánh lễ Quan thầy cách xa bàn thờ cả cây số, vì hôm ấy quảng trường và các con đường dẫn vào trung tâm giáo phận chật kín người, không thể nào di chuyển được. Cảm động hơn khi thấy mọi người đã hiệp thông cao độ để chia sẻ những đau khổ của anh chị em giáo dân tại Tam Tòa.
Đáng mừng nữa là mặc dù có rất đông người và nhiều phương tiện giao thông quá tải so với quảng trường giáo phận và các con đường dẫn vào Tòa giám mục, nhưng không xảy ra một điều gì đáng tiếc.
Điều làm cho nhiều người phải thán phục hơn cả là anh chị em đã thể hiện vẻ đẹp của dân Chúa: một dân hiệp nhất, một dân yêu chuộng hoà bình, yêu chuộng công lý và sự thật.
Chúng tôi biết có nhiều người rất bức xúc khi thấy anh chị em của mình tại Tam Tòa đã bị đánh đập đau thương, bị bắt giam bất công, bị chiếm đoạt tài sản cách trái phép, và nhất là các linh mục bị đánh đập trọng thương. Tuy nhiên trong tinh thần của người Công giáo, anh chị em đã biết nén lòng chịu đựng với niềm tin tưởng lời cầu nguyện của mình sẽ được Chúa chấp nhận. Chính nhờ những hy sinh quý báu đó mà chúng ta hy vọng công lý mau được lập lại, hoà bình sớm được triển nở trên quê hương.
Kính thưa quý cha cùng tất cả anh chị em,
Giáo phận chúng ta đã trải qua 163 năm lịch sử với bao thăng trầm, gian truân, thử thách. Nhìn lại quãng thời gian đó, mỗi chúng ta phải dâng thêm lời cảm tạ tri ân Chúa và Mẹ Maria – Mẹ giáo phận Vinh, đã luôn giữ gìn con cái giữa sóng gió biển đời.
Trong tinh thần của Năm Linh Mục và hướng tới Năm Thánh 2010 của Giáo Hội tại Việt Nam, chúng ta cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều linh mục thánh thiện, nhiệt thành. Xin Chúa ban cho chúng ta luôn biết góp phần xây dựng thế giới, quê hương ngày một an bình thịnh vượng.
Sau hết trong cùng một Mẹ giáo phận, chúng ta hiệp thông, cầu nguyện, thể hiện tình liên đới nhiều hơn nữa, giúp anh chị em tại Tam Tòa được thật sự hưởng tự do tôn giáo và mau ổn định cuộc sống.
Vụ Tam Toà theo truyền thông trong nước Thanh Quang, phóng viên đài RFA 2009-07-28
Hôm thứ Hai 27-7, văn Phòng Thư Ký Toà Giám Mục Giáo Phận Vinh phổ biến Thông Cáo số 3 gồm 11 điểm, kể cả điểm lưu ý rằng một số báo đài của nhà nước và của tỉnh Quảng Bình đưa tin không trung thực về vụ Tam Toà, việc đất đai cùng các vấn đề liên quan.
Photo courtesy Vietcatholic
Sáng ngày 20 tháng 7 giáo dân tới chỉ làm một cái lán tạm rất là đơn giản trên nền nhà thờ của cha ông họ để lại
Đánh đập, bắt giữ...
Nhưng theo báo điện tử Hà Nội Mới số ra cũng hôm Thứ Hai, thì – nguyên văn - “Toà giám mục Vinh đã triệu tập Hội đồng tư vấn linh mục họp khẩn cấp, ra thông báo gởi toàn thể các giáo xứ và trên trang web của giáo phận và Hội đồng giám mục VN với những nội dung xuyên tạc”. Thanh Quang tìm hiểu về khía cạnh tương phản này, và được Linh mục Antôn Phạm Đình Phùng, Chánh Văn Phòng Thư Ký - Toà Giám Mục Giáo Phận Vinh, cho biết:
LM Phạm Đình Phùng : Họ nói xuyên tạc, nhưng mà với chúng tôi thì chúng tôi làm đúng sự thật, tất cả là sự thật. Công an đánh đập giáo dân, bắt giữ trái phép, chiếm đoạt tài sản trái phép, thì điều đó chúng tôi lên tiếng. Chẳng những tôi mà cả Hội Đồng Linh Mục và cả Giáo Phận Vinh lên tiếng để phản đối vấn đề đó.
Sự thực là như thế, còn họ nói xuyên tạc hay không thì đó là một số báo chí của nhà nước, bởi vậy mà hôm nay chúng tôi cũng tuyên bố một số báo chí - báo đài của nhà nước nói về vấn đề Tam Toà là không đúng với sự thật như vậy, đất đai cũng như các vụ việc.
Còn từ Toà Giám Mục Xã Đoài thì đó là tiếng nói chính thức những vụ việc liên quan xảy ra. Chúng tôi khẳng định đó là sự thật mà Toà Giám Mục nói cho giáo dân, cho chính quyền, cũng cho mọi người muốn biết thông tin về Tam Toà.
Thanh Quang :Thưa Linh Mục, đọan mở đầu của bài báo vừa nói, tựa đề “Lại thêm một màn kịch vụng”, cho biết “...lại có một số giáo dân quá khích mượn cớ đòi đất xây dựng nhà thờ, hủy họai khu "Chứng tích tội ác chiến tranh Tháp chuông nhà thờ Tam Toà”. Linh Mục nhận xét như thế nào về lời cáo buộc như vậy ?
LM Phạm Đình Phùng : Chúng tôi không cố ý huỷ hoại, chúng tôi đang muốn cố giữ lại tài sản, nhất là giáo dân Tam Toà, giữ lại di sản Thánh riêng của cha ông. Việc làm đó là việc làm đúng của một người giáo dân đôi với niềm tin của họ cũng như quyền lợi của họ. Chúng tôi khẳng định như vậy.
“Màn kịch vụng”?
Thanh Quang :Thưa Linh Mục, vẫn theo bài báo thì, “Hành động ngang ngược này diễn ra đúng dịp kỷ niệm 62 năm Ngày Thương binh, liệt sỹ đã gây sự bức xúc, phẫn nộ trong nhân dân Quảng Bình nói riêng và dự luận cả nước nói chung”. Phản ứng của người dân Quảng Bình và cả nước có đúng là phẫn nộ trước hành đồng mà tờ báo gọi là "ngang ngược"của giáo dân Tam Toà hay không?
LM Phạm Đình Phùng : Không có như vậy. Chỉ có tại thành phố Đồng Hới - Tam Toà, sự việc xảy ra ở đó, còn trên địa bàn hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An chúng tôi thì không có vấn đề gì. Bà con lương dân cũng như các thành phần khác đều vui vẻ với nhau. Mà cái sự việc đó và chúng tôi cũng xoay quanh ở chỗ là công an Quảng Bình đánh đập, bắt giữ người trái phép, chúng tôi không nói gì xa hơn vấn đề đó cả, cho dù sự việc đó xảy ra lúc nào.
Sáng ngày 20 tháng 7 giáo dân tới chỉ làm một cái lán tạm rất là đơn giản trên nền nhà thờ của cha ông họ để lại cả ba bốn trăm năm rồi, thì cái việc nó đơn giản như vậy. Còn sự việc thổi phồng lên để đánh đập người rồi bắt giam trái phép, chiếm giữ tài sản, chiếm đoạt thánh giá thì những việc làm đó quá rõ ràng cho tới ngày hôm nay vẫn còn như thế.
Thanh Quang :Bài báo vừa nói, tức bài báo có tựa đề “Lại thêm một màn kịch vụng” cũng cáo giác rằng "vụ gây rối trật tự công cộng quy mô lớn này cho thấy đã có sự lợi dụng giáo dân để gây áp lực với chính quyền vào những mục đích không trong sáng". Linh Mục nhận xét như thế nào về cáo giác này?
LM Phạm Đình Phùng : Lời cáo giác đó hoàn toàn xuyên tạc và trái sự thật. Chúng tôi là những người Công Giáo, chúng tôi yêu chuộng hoà bình. Chúng tôi là những người công Giáo, chúng tôi muốn xây dựng quê hương ngày càng tốt đẹp hơn. Còn họ cố ý dùng những lời đó để mà xuyên tạc sự thật, để mà xúi giục thì họ phải chịu trách nhiệm về những lời sai trái của họ.
Thông Cáo số 3 (27/7/2009) của VP Thư ký Tòa Giám mục Giáo phận Vinh
VĂN PHÒNG THƯ KÝ TÒA GIÁM MỤC XÃ ĐOÀI Nghi Diên - Nghi Lộc - Nghệ An Đt. 0383 611 845 ; 0977006526 Email: tgmxadoai2004@yahoo.com
Ngày 27 tháng 7 năm 2009
THÔNG CÁO (SỐ 3)
V/v Tam Tòa tại Đồng Hới, Quảng Bình
1. Đây là bản thông cáo số 3, qua đây, Văn phòng thư ký có những thông tin và báo cáo chính thức từ Tòa Giám mục Xã Đoài, Giáo phận Vinh về vụ việc Tam Tòa và các vấn đề liên quan.
2. Tòa Giám mục cám ơn các bài viết dưới những hình thức khác nhau đã lên tiếng hiệp thông với Tam Tòa, cách riêng là những nạn nhân bị công an và nay quân vô lại đánh đập và bắt giữ.
3. Trên một số báo đài của Nhà nước và của tỉnh Quảng Bình có nói về việc đất đai và vụ việc Tam Tòa. Tòa Giám mục Xã Đoài, Giáo phận Vinh tuyên bố rằng sự thật không phải là như các báo đài ấy nói.
4. Theo dự định, 7 giờ sáng Chúa Nhật, ngày 26/7/2009 tại nhà thờ 18 sở hạt trên tổng số 19 giáo hạt trong Giáo phận Vinh, giáo dân các giáo xứ đã đổ về giáo hạt mình để thể hiện tình liên đới, hiệp thông cầu nguyện cho Tam Tòa. Theo số liệu báo cáo từ các giáo hạt, số giáo dân tham dự lễ sáng hôm 26/7 gần 250 ngàn người. Giáo dân các giáo xứ mang theo cờ vàng-trắng với biểu ngữ : “Cầu nguyện cho giáo dân Tam Tòa bị công an Quảng Bình đánh đập và bắt giữ”.
Biểu ngữ này đang được treo ở cổng Tòa Giám mục và trước tất cả các nhà thờ trong toàn Giáo phận Vinh. Theo thông tin từ các giáo hạt, thánh lễ này được cử hành rất trang nghiêm, sốt sắng. Tất cả nói lên sự hiệp thông liên đới của linh mục đoàn, tu sỹ nam nữ và gần 500 ngàn giáo dân Giáo phận Vinh, với những anh chị em mình đang bị bách hại. Và ai cũng cảm thấy đau nhói, khi biết Thánh Giá đã bị công an Quảng Bình xúc phạm và nay đang bị hạng vô lại chiếm giữ.
5. Riêng tại Tam Tòa, Đồng Hới, có 7 linh mục trong hạt Đồng Troóc và hơn 500 giáo dân về nền nhà thờ Tam Tòa để dâng lễ. Nhưng có một lực lượng khoảng trên 3000 người, trong đó gồm có công an, cảnh sát, dân quân và dân địa phương đã dùng vũ lực ngăn cản, đánh đập một số giáo dân không cho tới nền nhà thờ Tam Tòa. Có 3 người bị đánh, trong đó có mẹ con chị Yên là phó Ca đoàn giáo xứ Tam Tòa bị một nhóm thanh niên xông vào đánh, chị ấy ngồi xuống. Con chị chạy tới chữa và cũng bị đánh (con chị mới 8 tuổi).
6. Chiều 26/7/2009 công an Quảng Bình tiếp tục bắt 3 giáo dân, trong đó có Ông Lý - chủ tịch HĐMV giáo xứ Tam Tòa; chị Yên - phó trưởng Ca Đoàn giáo xứ; Anh Thống quê xứ Trang Nứa, Nghệ An. Thêm vào đó công an Quảng Bình còn dùng các hình thức khác để đe dọa, trấn áp giáo dân Tam Tòa.
7. Sáng 27/7/2009, 5 linh mục và Hội đồng mục vụ các giáo xứ trong giáo hạt Kỳ Anh, (giáo hạt sát Quảng Bình) vào thăm các nạn nhân. Theo các Cha kể lại, khi đoàn vừa bước xuống xe, gần nền nhà thờ Tam Tòa thì một nhóm ăn mặc thường phục, có ít tên giống côn đồ xông vào đánh ngay các linh mục và giáo dân cùng đi. Cũng theo các Cha kể lại, đàng xa có một số trong trang phục công an đứng nhìn.
Khi lớp "côn đồ" đánh Cha Phaolô Nguyễn Đình Phú và 3 giáo dân bị trọng thương thì nhóm công an mới tiến lại mang loa bảo mọi người giải tán. Một nhóm giáo dân đưa Cha Phú và mấy người bị trọng thương vào một trạm xá gần đó. Thấy tình thế quá bất ổn, vì nhóm côn đồ tiếp tục nói những lời tục tĩu, đe dọa buộc các linh mục và giáo dân phải rời khỏi nơi đó, nên các cha lên xe trở về.
8. Nghe tin trên, Cha Phêrô Ngô Thế Bính - quản xứ Hà Lời tới để nắm bắt tình hình. Thấy cảnh tượng khủng khiếp, vì nhóm côn đồ bao vây trạm xá không cho ai vào, ngài đứng từ xa và điện thoại yêu cầu phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình tới để cha Bính có thể vào thăm Cha Phú. Phó chủ tịch UBND Quảng Bình tới và dẫn Cha Bính tới thăm Cha Phú. Phó chủ tịch bàn Cha Phú ra khỏi trạm xá và ông đi khỏi đó. Sau đó một lớp côn đồ đang vây quanh trạm xá xông vào đánh 2 giáo dân đang trực cha Phú và đánh Cha Bính. Tình thế hỗn loạn, Cha Bính thấy công an trong trang phục của mình đứng nhìn để nhóm côn đồ đánh đập tàn nhẫn, rồi để Cha Bính nằm bất tỉnh.
Có một giáo dân đang làm ăn tại Đồng Hới đi qua thấy và biết đó là Cha Bính liền thuê xe đưa Cha Bính tới bệnh viện Việt Nam-Cuba tại Đồng Hới. Và sau đó công an thuê taxi đưa Cha Phú và 5 giáo dân bị đánh trọng thương tới bệnh viện Việt Nam - Cuba. Tại bệnh viện, 2 Cha và các giáo dân bị đánh trọng thương không được cứu chữa gì. Và bệnh viện đề nghị Cha Phú về bệnh viện Kỳ Anh. Rồi họ cho xe đưa Cha Phú và 5 giáo dân về Kỳ Anh. Cha Bính nằm dở sống dở chết không được chăm sóc, khi tỉnh lại, ngài được người giúp đưa ra khỏi bệnh viện và lên xe về Phòng khám Đa khoa Tòa Giám mục Xã Đoài.
9. Một lần nữa, những hành động man rợ mà các chứng nhân cho biết là có sự tiếp tay của công an Quảng Bình làm cho dư luận khắp nơi phẫn nộ, bất bình. Giáo dân Vinh đang chuẩn bị tinh thần cao nhất để đối phó với mưu chước quỷ ma.
10. Máu giáo dân Tam Tòa đã đổ xuống tại mảnh đất thánh thiêng của Cha Ông. Nay máu linh mục Vinh đã đổ xuống tại Tam Tòa. Người ta chắc chưa ai lường hết sự thể sẽ xảy ra thế nào, nếu chính quyền Quảng Bình vẫn tiếp tục dùng vũ lực trấn áp tôn giáo.
11. Hiện nay, các nạn nhân tại Tam Tòa bị tổn thương tâm lý rất nặng, nhất là các trẻ em cũng bị quân vô lại làm khổ. Đoàn chiên nhỏ tại Tam Tòa như đang phải sống giữa bầy lang sói đông gấp trăm lần. Họ đang hy sinh thay cho chúng ta, những người tin Chúa. Xin mọi người hiệp ý cầu nguyện. Xin những người thiện chí cùng lên tiếng bênh vực họ.
Văn phòng Thư ký Tòa Giám mục Chánh Văn phòng (Đã ký và đóng dấu) Linh mục Antôn Phạm Đình Phùng
Trong Tin Mừng thứ tư của Tân Ước, Thánh sử Gioan có viết: “Tôi
chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên
khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán
loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên.” [1]
Những lời này được viết xuống cách đây gần hai nghìn năm vẫn
là những lời tuyên xưng nhiệm vụ cao cả của người mục tử và đã được chứng minh
qua trường kỳ lịch sử, lúc yên hàn cũng như khi sóng gió, ở một đất nước văn
minh hay tại một nơi quê mùa thô lậu, người mục tử nhân lành luôn luôn hiện
diện, sống chết giữa đàn chiên.
Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, giáo xứ Lũy hay Động Hải (tiền thân của các xứ
đạo Sáo Bùn và Tam Tòa) đã giữ đạo với tính cách cha truyền con nối, rất hiếm
khi có được linh mục sống thường trực với họ để ban các phép bí tích hay làm công
tác mục vụ. Tuy vậy, các vị mục tử dù ở xa tận kinh đô Huế vẫn tìm cách vượt
qua bao khó khăn để đến với giáo hữu những lúc có cơ hội.
Bước qua thế kỷ XIX và XX đã hình thành các cơ cấu giáo xứ
khá chặt chẽ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội Ngoại Quốc Truyền Giáo có trụ sở
chính tại Paris và mặc dầu còn ít nhưng bóng dáng linh mục cũng đã hiện diện
nhiều nơi tại Quảng Bình, đặc biệt là tại giáo xứ Sáo Bùn. Đối với người Công
Giáo, mỗi giai đoạn lịch sử mới có một thử thách mới nhờ đó đức tin như sắt thép
được trui rèn trong lửa mà trở nên dẻo dai, cứng cáp hơn.
Dưới thời Tây Sơn rồi trải qua các triều đại của Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức
cũng như qua biến động lịch sử của phong trào Cần Vương – Văn Thân, các cuộc
bách hại đạo Công Giáo được nâng lên tầm vóc quốc gia với những chỉ dụ gắt gao,
với các cuộc tàn sát khốc liệt thì cũng xuất phát trong bối cảnh nghiệt ngã đó
những tấm gương các vị mục tử anh hùng sống chết với đàn chiên mà giáo xứ Sáo
Bùn có thời là một điểm nóng trong lịch sử tử đạo trước đây.
1.- Một chút bối cảnh chính trị – xã hội của giáo xứ Sáo Bùn qua lịch sử.
Năm 1797, giáo xứ Động Hải dời về xóm Bùn (khu vực Cầu Ngắn) lấy tên mới là
giáo xứ Sáo Bùn. Tên Sáo Bùn được đặt cho giáo xứ vì có liên hệ với nghề nghiệp
của đa số giáo dân tại đây vốn dùng những tấm sáo cắm vào chỗ nước nong đầy bùn
để bắt cá nên có tên gọi nôm na như vậy. Trong tư liệu Les lieux historiques
du Quảng Bình (Những vùng đất lịch sử của Quảng Bình) linh mục Léopold
Cadière (tên VN là Cả) khi viết về lũy Đồng Hới nằm trong hệ thống chiến lũy
Đâu-Mâu – Nhật Lệ, chỉ đề cập thoáng một chút về con kênh nhỏ Sáo-bùn (le petit
arroyo dit de Sáo-bùn) [2], một vị trí mà ngày nay nhìn trên bản đồ ta thấy đó
là một con lạch chảy qua một chiếc cầu nhỏ gọi là Cầu Ngắn nằm trên quốc lộ IA.
Phạm vi cương giới của giáo xứ Sáo Bùn ngày xưa chắc phải nằm ở cả hai bên quốc
lộ IA này từ Cầu Ngắn trở vào.
Với cuộc sống dĩ nhiên vất vả của những người dân quê Công Giáo này quanh năm
cột buộc vào chốn bùn lầy nước đọng để nuôi sống bản thân nên họ cũng ít có hy
vọng một ngày mai sáng tươi hơn, mặc dù vậy tấm lòng của họ lại là môi trường
thuận lợi nuôi dưỡng đức tin tôn giáo kiên cường. Các thế lực cầm quyền, cai
trị thường đánh giá sai lầm cho rằng những người dân quê ít học, thấp cổ bé
miệng là thành phần dễ sai bảo, dễ đàn áp, nói gì cũng nghe.
Thực tế không phải như vậy bởi vì trời sinh ra họ có lương
tri (bon sens), và riêng trong lãnh vực tín ngưỡng, tôn giáo khi giáo dân cảm
nhận được ơn thúc đẩy từ bên trong hoặc từ trên cao – mà người Công Giáo thường
gọi là Chúa Thánh Thần hay Thần Khí – họ sẽ hành động theo sự hướng dẫn, thúc
đẩy đó dù phải chấp nhận thử thách,mất mát, đau khổ, kể cả cái chết. Mẫu người
giáo dân giáo xứ Sáo Bùn ngày trước hay Tam Tòa ngày nay cũng như vậy.
Vào thập niên cuối của thế kỷ XVIII, lúc bấy giờ chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định cứ
hàng năm đợi dịp gió mùa kéo quân ra tấn công Tây Sơn khi thì ở Bình Định, lúc
Đà Nẵng tạo thành truyền thống mong chờ, hy vọng đi vào ca dao như:
Lạy trời cho chóng gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra.
Giáo xứ Sáo Bùn ở trong vùng cai trị của Tây Sơn mà thủ đô chính trị của Nguyễn
Quang Toản (con vua Quang Trung) khi đó là Phú Xuân. Bản chất của Tây Sơn không
tốt lành gì với các tôn giáo. Theo các tư liệu để lại, gia đình Hồ Phi Phúc,
cha của anh em Nguyễn Nhạc vốn theo Công Giáo khi họ còn ở Nghệ An nhưng Nhạc
bỏ Công Giáo mà trở thành một kẻ vô thần. Nguyễn Huệ tu trong một ngôi chùa rồi
hồi tục.
Giáo sĩ La Bartette nhận định: “Tôi không thấy gì tốt có
thể hy vọng được nơi các ông đó; ở đây, họ đã phá hủy những giáo đường đẹp đẽ
nhất của chúng tôi, họ đã phá hủy tất cả các chùa chiền cùng bắt buộc hết thảy
các nhà sư phải mang khí giới ra trận.” [3] Chắc chắn số phận của những
người Công Giáo giáo xứ Sáo Bùn cũng không mấy tốt đẹp nếu không nói là sống
trong khắc khoải, lo âu trước tương lai vô định.
Qua lãnh vực tôn giáo, giáo dân từ Phú Xuân trở ra còn bị buộc cung ứng cho chế
độ Tây Sơn các nhu cầu về chiến tranh, chẳng hạn như nộp cho họ 10.000 cân đồng
có lẽ dùng đúc súng đạn [4]. Trong thời gian này, Cảnh Thịnh nghi ngờ người
Công Giáo làm loạn vì bắt được lá thư của Nguyễn Ánh gửi cho Đức Cha Labartette
ở Phú Xuân nên hạ lệnh cho các quan bí mật đến tháng 5 năm 1798 sẽ bắt gọn các
bổn đạo giết cho sạch. Các quan hết sức can ngăn nhưng vua cương quyết bắt phải
thi hành mệnh lệnh.
Giáo dân nghe biết bèn rũ nhau trốn kẻ lên núi, người xuống
biển [5]. Ngày 17.8.1798 Tây Sơn đưa ra sắc lệnh bài đạo dựa trên lý lẽ: “Xét
rằng kiến thức điều khiển quốc gia đều gồm trong tam cương. ngũ thường (...)
trong khi đạo Hoa lang lại đầy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã
hội.” [6] Luận điệu này gần giống với quan điểm của Minh-Mạng, khi ông ban
hành sắc dụ cấm đạo ngày 6.1.1833 với những lời lẽ như:
“Đã từ lâu nhiều
người Âu-Châu đến giảng đạo Da-Tô, lừa dối dân đen, dậy chúng có một Thiên Đàng
Hỏa Ngục, chúng không thờ Phật, không thờ ông bà, thật là vô đạo, hơn nữa chúng
dựng những nhà thờ, trong đó trai gái ra vào lẫn lộn, mục-đích chúng là quyến
rũ phụ-nữ đàn bà, chúng còn múc mắt những người đau ốm! Thật là một điều trái
với luân thường đạo nghĩa...” [7]
Linh mục sử gia Phan Phát Huồn cho rằng “những quan niệm
trên có nhiều chỗ không đúng sự thật. Người Công Giáo không thờ cúng tổ tiên
không có nghĩa là họ không thảo kính và mến yêu ông bà, tổ tiên. Chứng cớ là
khoản 4 của Thập Điều dậy tín hữu công giáo phải thảo kính cha mẹ. Đạo Công
–giáo cấm thờ cúng tổ tiên hoặc một thực tài nào khác ngoài Thiên-Chúa do đó
đạo Công-Giáo là một tôn giáo độc-thần.” [8] Trong sắc dụ cấm đạo ngày
17.1.1860, Tự-Đức viết rằng: “Từ lâu đạo Da-Tô đã vào nước chúng ta và đã
làm mê hoặc dân chúng, đã có những sắc dụ rất nghiêm khắc cấm tả-đạo, mỗi lần
có tên công-giáo nào bị bắt chúng ta đã trừng trị nó, vậy mà vẫn có những bọn
người ngu ngốc mù quáng nhất định không chịu xuất giáo.
Lúc tàu bọn mọi rợ đến trong nước chúng ta, vô cớ chúng đã đưa sự loạn lạc
trong các tỉnh Quảng-Nam và Gia-Định, nhưng chúng đã không đi đến một kết quả
nào, ban đầu chúng muốn liên lạc với chúng ta, và đã khiêm nhường yêu cầu chúng
ta kính trọng sự tự-do tín-ngưỡng. Rõ ràng chúng không có mục-đích gì khác
ngoài mục-đích nầy.
Những kẻ thủ lãnh của bọn chúng đã tưởng rằng vì lời yêu cầu ấy chúng ta sẽ hủy
bỏ những dụ cấm đạo, chúng ta biết chắc chúng nuôi ý tưởng ấy thầm kín ở trong
lòng. Chúng ta cần phải trừng trị chúng một lần nữa cho chúng biết mặt. Chúng
ta cần phải rẽ lúa tốt ra khỏi cỏ lùng, người lương dân với bọn côn đồ, chúng
ta phải tiêu diệt tất cả những ước vọng xấu xa của chúng...” [9]
Thêm nữa các lý lẽ do giới cầm quyền nêu lên xét ra không vững vì với lập luận
hàm hồ xa rời thực tế đối chiếu cùng nội dung mà giáo lý Công Giáo truyền dạy
lúc bấy giờ. Trong cuốn sách nhỏ mới in gần đây có tên Đạo Trung Tùy Bút,
giáo sư Trần Văn Toàn đã soi sáng những uẩn khúc nằm trong cái lý lẽ nêu trên:
“Người Việt, bên lương cũng như bên giáo, thường có điều
thắc mắc, vì nghĩ rằng theo đạo từ ngoại quốc đưa vào, thì tất không hợp với
tập tục của mình. Có người cho rằng đi đạo là bỏ ông bà cha mẹ. Vì thế ngay từ
buổi đầu, các giáo sĩ đã ra công giải thích rằng: tuy đạo Thiên Chúa từ
Thái-Tây truyền sang, nhưng nguồn gốc nó lại là từ Tiểu Á, đàng khác truyền
thống tam giáo Việt Nam cũng là từ ngoại quốc, Ấn Độ và Trung Hoa, đem vào, và
sau cùng thì người theo đạo Thiên Chúa sống ở đời cũng không ngoài phạm vi
trung hiếu, có khác chăng là khác thể thức. Muốn giảng tin lành cho một xã hội
tổ chức trên căn bản Nho giáo, lẽ tất nhiên là các giáo sĩ đạo Thiên Chúa phải
nói đến lập trường của mình về tam cương ngũ thường, vì lẽ rằng từ vua quan cho
đến dân chúng, ai cũng đứng vào lập trường chính đạo để đánh giá tin lành, xem
có thể chấp nhận được hay là không.” [10]
Một vị túc nho ở Huế, linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích đã mượn những chữ
trong sách Xuân Thu và Trung Dung qua một đối liên tuyệt diệu để nói lên
tấm lòng người Công Giáo đối với gia đình, đất nước và nhất là sự trung thành,
chung thủy với tôn giáo của mình: Tử hựu hà phương, vi trung vi hiếu,
Đạo bất khả lị, duy nhất duy tinh.
Nghĩa là: Chết nào hại được ai, vẫn trung vẫn hiếu,
Đạo không thể xa lìa, duy nhất duy tinh. [11]
Câu trên lấy ý từ sách Xuân Thu của Khổng Tử, câu dưới mượn ở sách Mạnh
Tử của thầy Mạnh. Trong trường hợp này, linh mục Nguyễn Văn Thích muốn nói lên
tấm lòng của Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857) là một vị quan lớn trong triều
Tự Đức với chức tước Thái Bộc Tự Khanh, thuộc Giáo phận Huế, đã được phúc tử vì
đạo, để chứng minh rằng cái chết không thể nào làm hại được ai, càng tôn lên
phẩm tiết của người tử đạo và tấm lòng hiếu với nhà, trung với nước vẫn tỏ rõ
cùng trời đất, nhất là đạo Công Giáo là chính đạo, là đạo duy nhất, duy tinh
nên càng không thể bỏ được.
Trần Văn Giàu, sử gia của chế độ Cộng Sản Việt Nam tuy rất kính trọng linh mục
Nguyễn Văn Thích nhưng trong một số bài viết vẫn cho rằng linh mục Sảng Đình đã
dùng tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại để biện minh cho đạo Công Giáo. Thật
sự, quan điểm của linh mục Nguyễn Văn Thích cũng là quan điểm của một số các
nhà Trung Hoa Học (Sinologue) trong đó có nhiều vị thừa sai nổi tiếng như Léon
Wieger, Séraphin Couvreur, Henri Bernard-Maitre, mục sư James Legge v.v...
Trong tác phẩm Sage chinoise et Philosophie chrétienne, [12]
Henri Bernard-Maitre trình bày nhiều đề tài triết học, tôn giáo của Tây Âu đối
chiếu với triết học và lịch sử Trung Quốc. Chống đối hay biện minh cho một tôn
giáo hoàn toàn tùy thuộc vào chỗ đứng và cách nhìn của từng người. Điều quan
trọng là phản ảnh đúng sự thật và nhất là luận điểm đưa ra có thuyết phục được
người khác hay không.
Nếu trước đây, trong các thế kỷ XVII, XVIII, khi số lượng giáo dân còn ít, các
chúa Nguyễn nhắm đối tượng cấm đoán là các giáo sĩ ngoại quốc để vu cho họ là
gián điệp, do thám nhằm có cớ để giết hay trục xuất thì qua thế kỷ XIX, lúc con
số giáo dân đã đông đảo dần lên có thể trở thành một thế lực trong chính trị,
nhà cầm quyền như Tây Sơn hay các vua nhà Nguyễn dồn chủ đích tiêu diệt vào
khối thần dân của mình. Các lý lẽ cấm đạo trong nhiều sắc dụ của triều đình đều
giống nhau nhưng hoàn toàn sai lạc, xa với sự thật khi đối chiếu lại với giáo
lý, đường lối, phong cách xử thế của Công giáo.
Tuy nhiên giữa trận bão âm thanh cuồng loạn, ác sát, ngập mùi tử khí đối với
người Công Giáo từ triều đại Cảnh Thịnh qua thời Minh Mạng, Thiệu Trị rồi Tự
Đức, bỗng nhiên xuất hiện một luồng ánh sáng tươi dịu qua tờ trình của Nguyễn
Đăng Giai, kinh lược sứ miền Bắc của triều Huế thời Tự Đức xin nhà vua kính sự
tự do tín ngưỡng của người Công Giáo cũng là con dân của mình. Tờ trình có dụng
ý làm cho Tự Đức nhận chân được sự thật và đình chỉ việc bách hại đạo.
Sau đây là một vài đoạn trích dẫn: “Đạo Da-Tô là một tả đạo, đạo này đã lừa
dân và đưa lại bao sự xấu xa cho dân chúng như lời Hoàng Đế đã tuyên bố. Vậy
đạo nầy không phải là một đạo mới tràn lan trong dân chúng Việt Nam. Những
người dân công giáo bây giờ giữ đạo vì cha mẹ, tổ tiên họ đã có đạo; số của
người công giáo già trẻ, nam phụ lão ấu có đến 100.000 người; không phải trong
vài tháng, vài năm mà chúng ta có thể sửa lại sự sai lầm của chừng ấy người!...
Sách của chúng, về mặt văn chương chẳng có gì đáng kể, nhưng những sách ấy
không dạy điều gì trái ngược luân thường đạo lý. Sách ấy không hại đến xã hội.
Tất cả lời lẽ trong sách đều có một mục đích: “Đem hạnh phúc cho loài người”.
Mặc dù người công giáo có nhiều điều sai lầm nhưng họ
sống trong bình an. Họ trả thuế đàng hoàng và ít khi bắt được người công giáo
làm nghề ăn trộm hay là nghề phiến loạn. Tối sáng bọn chúng đọc kinh, đêm cũng
như ngày chúng ra sức cải thiện đời sống của mình để được phúc thiên đàng. Chỉ
vì sai lầm như thế, hỏi có nên trừng trị họ một cách quá nghiêm khắc không?” [13]
Tờ trình của Nguyễn Đăng Giai có những điểm xem ra phù hợp với thực trạng người
Công Giáo nhiều thế kỷ về sau nhất là về phương diện xã hội.
Đoạn văn trích dẫn tiếp đây càng phản ảnh đúng con đường phát triển Tin Mừng
của người Công Giáo trong những năm đầu thế kỷ XIX mà có lẽ xứ đạo Sáo Bùn cũng
là một trong những giáo xứ điển hình:
“Đây là phương pháp người công giáo thường dùng để tuyên
truyền đạo: trước nhất họ làm cho nhiều người đàn ông theo đạo, tất nhiên cả
gia-đình người đàn ông ấy cũng theo đạo. Ban đầu chỉ có vài gia đình công-giáo,
với thời gian cả ấp, rồi cả làng đều có đạo Công giáo; và cứ lặng lẽ họ đã đi
đến cái con số khổng lồ ngày nay. Người công-giáo nuôi nấng những kẻ bần cùng,
đói rách, giúp đỡ những người đau khổ xác hồn. Không kể màu da nước tóc, họ vẫn
coi nhau như phần-tử của một thân hình, vì thế những ai đã theo tả-đạo, người
ấy lấy làm thích thú và không sao bỏ đạo được. Vả lại người công-giáo thấy những
kẻ không công-giáo, ở ngoài xã-hội phải làm việc quá nhọc, trong gia đình phải
khổ cực trăm bề, cha mẹ con cái, bà con không giúp đỡ lẫn nhau, cả ngày say đắm
trong tài sắc, sống trong bất công và hằn thù ghen ghét nhau.” [14]
Tuy ông Nguyễn Đăng Giai đã cố đưa ra những dữ kiện rất cụ
thể để thuyết phục vua Tự Đức bãi bỏ các chỉ dụ cấm đạo nhưng nhà vua vẫn quyết
định chính sách theo ý riêng của mình, bất chấp những lời can gián hợp lý.
2.- Những chủ chăn sống chết giữa đàn chiên xứ đạo Sáo Bùn (Tam Tòa).
Một trong những vị chủ chăn đã đem hết tinh thần và sức lực phục vụ đàn chiên
trong thời kỳ khó khăn nhất của Giáo hội và đã đổ máu đào minh chứng cho Đức
tin tại giáo xứ Sáo Bùn, đó là linh mục Gio-an Đoạn Trinh Hoan.
Linh mục Đoạn Trinh Hoan sinh năm 1798 tại làng Vân Dương, tổng An Cựu, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, về sau dời đến làng Kim Long, tổng An Ninh, huyện
Hương Trà cùng tỉnh. Ngài là con của ông Batôlômêô Đoạn Trinh Sương và bà Isave
Diệm, là em của ông Đoạn Trinh Cung.
Linh mục Đoạn Trinh Hoan xuất thân trong một gia đình có nhiều người làm linh
mục, bị đày đọa, bắt bớ, cầm tù, chết trong ngục hay chết vì đạo.
Ông Đoạn Trinh Cung chết rũ tù dưới thời bắt đạo của Tây Sơn. Các con của ông
là Đoạn Trinh Cách bị lưu đày, và một người con khác là linh mục Đoạn Trinh
Khoan (1829-1885) bị quân Văn Thân thiêu sát tại nhà thờ Dương Lộc, quận Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị ngày 8.9.1885.
Thuở ấu thời, Đoạn Trinh Hoan học La-Tinh với cha Kiết, sau được cha này bảo
trợ vào học Tiểu chủng viện An Ninh hoặc Tiểu chủng viện Di Loan thời Đức Cha
Labartette làm Giám đốc, từ 1802. Khoảng năm 1816, Đoạn Trinh Hoan được Đức Cha
Labartette gửi qua học tại chủng viện Pénang, rồi về nước năm 1824. Thầy Hoan
giúp chủng viện An Ninh rồi khi thừa sai Jaccard (tên Việt là Phan) đưa chủng
viện vào Dương Sơn, thầy Hoan cũng theo vào và từ đó làm thư ký cho Đức Cha
Taberd. Năm 1836 Đức Cha Stéphane Cuénot (tên Việt là Thể) truyền chức linh mục
cho thầy Hoan tại nhà thờ Gò Thị (Bình Định) và phái tân linh mục ra coi hai xứ
Kẻ Sen và Kẻ Bàng từ năm 1836 đến 1838.
Từ năm 1838 đến 1842 cha Hoan làm quản xứ giáo xứ Bái Trời thuộc phủ Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị, kế tiếp đi coi một vài họ đạo tại Huế rồi lại ra Sen-Bàng lần
thứ hai trong 4 năm.
Năm 1850, Giáo phận Bắc Đàng Trong (tức Giáo phận Huế ngày nay) được thành lập
và Đức Cha Sohier (tên Việt là Bình) bổ nhiệm linh mục Đoạn Trinh Hoan làm cha
sở giáo xứ Sáo Bùn (Tam Tòa, Đồng Hới) khoảng cuối năm 1851, đồng thời phụ
trách hai tu viện Dòng Mến Thánh Giá Mỹ-Hương và Kẻ Bàng. Ngoài ra linh mục
Hoan cũng coi thêm một họ đạo nhỏ gần giáo xứ Sáo Bùn là Kẻ Lái (hay Kẻ Lậy
cũng gọi là Lý Nhơn) ở Bố Trạch, Quảng Bình.
Ngày nay các tư liệu còn lại của Giáo phận Huế cho biết linh mục Đoạn Trinh
Hoan là người có công trong việc đào tạo, huấn luyện một số linh mục trẻ tuổi
xuất sắc như linh mục Đoạn Trinh Khoan (gọi ngài bằng chú), linh mục Trần Phi
Long, linh mục Inhaxiô Lê Văn Huấn, thầy Sáu Cang v.v... Các giám mục Cuénot,
Pellerin, Sohier rất tín nhiệm cha Hoan trong công tác giáo dục, đào tạo thế hệ
linh mục trẻ và nhiệt liệt khen ngợi ngài. [15] Lúc bấy giờ, làn sóng khủng bố
người Công Giáo dâng cao với chính sách “phân sáp” ác liệt đang bổ xuống trên
đầu giáo dân.
Vào đầu năm 1861, cha Hoan đến xứ đạo Sáo Bùn (Tam Tòa) cho
giáo dân xưng tội để chuẩn bị mừng Lễ Ba Vua (Lễ Hiển Linh). Nơi đây cha được
ông Trùm xứ Nguyễn Văn Phượng lo nơi trú ẩn chu đáo. Khi đó có hai người ngoài
Công Giáo thuộc hai làng Đức-Phổ và Hữu Cai (còn gọi là Hồ Cai) rình rập theo
dõi và đi tố cáo với quan. Quan quân tại phủ lị Đồng Hới chuẩn bị kéo đến Sáo
Bùn. Có ba giáo dân Sáo Bùn thấy vậy bèn chạy về cấp báo vì biết có thể người
ta định đến bắt cha Hoan, trong khi đó các vị trong Ban Chức Việc bán tín bán
nghi nên không chịu dẫn cha Hoan đi trốn ngay.
Khi quan quân kéo đến Sáo Bùn, cha Hoan chạy ra bờ sông,
xuống được một chiếc thuyền chèo ra xa. Không tìm thấy dấu tích vị linh mục,
quan quân dập tắt hết đèn đuốc kéo ra bờ sông phục kích. Cha Hoan thấy bốn bề
yên tĩnh bèn lên bờ tìm một bụi kín để núp nhưng bị lính phát hiện, báo động và
ngài buộc phải lên tiếng xưng mình là đạo trưởng. Lính bắt ngài dẫn về Đồng Hới
lúc đó đã quá nửa đêm ngày mồng 2 rạng mồng 3.1.1861.
Sáng ngày 3.1.1861, quan quân lùng bắt được ông Trùm xứ Nguyễn Văn Phượng.
Nghe tin cha Hoan bị bắt, Đức Cha Sohier (tên Việt là Bình) lúc đó đang ẩn trốn
tại Sen Bàng xuất 15 nén bạc cộng thêm một số tiền của một vài giáo hữu giàu có
ở đó đem vào Đồng Hới để tính chuộc cha Hoan ra nhưng các quan ở Đồng Hới không
dám thả ngài vì ngài là đạo trưởng vốn là đối tượng chủ yếu trong chiến dịch
lùng bắt người Công Giáo.
Ngày 4.1.1861 cha Hoan bị đưa ra xét xử cùng với 9 giáo dân. Trong tù, linh mục
Đoạn Trinh Hoan bị tra tấn nhiều lần nhưng ngài không chịu xuất giáo, bị đánh
19 roi và vẫn hiên ngang làm công tác mục vụ như giải tội cho các tù nhân, an
ủi khuyên bảo họ. Cuối tháng ba, cha Hoan bị kết án tử hình và tịch thu tài
sản. Một số các giáo dân khác bị xử lưu đày gồm có: ông Biện, Thầy Huệ, ông Quế
và bà Ban. Bốn người khác có liên can đến vụ này nhưng đã chạy trốn sẽ bị kết
án khi bắt được.
Ngày 25.5.1861, bản án vua Tự Đức duyệt phê ra tới Đồng Hới.
Ngày 26.5.1861, một viên cai đội cùng lính tráng đến nhà tù tuyên đọc bản án
trước sự hiện diện của cha Đoạn Trinh Hoan như sau: “Tự Đức năm thứ 14, ngày
17 tháng 4, tên Hoan là đạo trưởng, dạy đạo và lừa dối nhiều người, luận phải
xử chém lập tức” . Sau đó ông ra lệnh đóng gông vào cổ cha và cho bốn tên
lính cầm giáo áp tải cha đi ra cửa thành và đưa ra pháp trường là một cánh đồng
trống ở ngoài thành Động Hải, kế cận làng Phú Ninh. Biết trước cuộc tử đạo của
cha Hoan sắp diễn ra nên giáo dân Sáo Bùn đã chuẩn bị đến pháp trường trước,
trải chiếu sẵn để cha quì lên trên.
Sau khi ngước mắt lên trời cầu nguyện rất sốt sắng một hồi lâu, linh mục Đoạn
Trinh Hoan bình thản nói với lý hình: “Tôi đã sẵn sàng”. Trước khi khai
đao, lý hình nhảy múa chờ lệnh để chém xuống. Nhát đao thứ nhất chém trúng vai
khiến cha Hoan té ngửa, tên lính túm tóc cha ngồi lên và chém nhát thứ hai vào
má rồi chém tiếp theo hai nhát nữa. Nhát sau cùng đã trúng cổ khiến đầu cha
văng ra xa khoảng năm bước. [16] Giáo dân thuộc nhiều xứ Sáo Bùn, Mỹ Hương được
phép vào thấm máu và tẩm liệm rồi đem về an táng tại nghĩa trang các nữ tu Dòng
Mến Thánh Giá ở Mỹ Hương. Sau khi vua Tự Đức tha đạo và giáo hội lập hồ sơ
phong á thánh, xác ngài được cải táng và đưa về đại chủng viện Phú Xuân (Huế).
Đức Giáo Hoàng Piô X đã suy tôn linh mục Đoạn Trinh Hoan lên hàng Chân Phúc
ngày 2.5.1909.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn vinh cha Hoan lên bậc Hiển Thánh ngày
19.6.1988.
Cùng chịu tử vì đạo với linh mục Gioan Đoạn Trinh Hoan ngày 26.5.1861 tại pháp
trường Đồng Hới còn có ông Matthêu Nguyễn Văn Phượng (1801-1861), Trùm xứ Sáo
Bùn và Trùm hạt Quảng Bình.
Hai vị thừa sai người Pháp cũng đã chia xẻ những khổ cực, gian nan với giáo dân
Sáo Bùn, sống chết với đàn chiên trong hoàn cảnh truân chuyên nhất dưới thời
Văn Thân – Cần Vương (1885-1886) đó là linh mục Jean Héry (tên Việt là Y) và
linh mục Claude Bonin (cố Ninh).
Từ tháng giêng năm 1886 đến tháng 6-1886, linh mục Jean Héry (tên Việt là Y)
trông coi giáo xứ Sáo Bùn với dân số khoảng 1200 giáo dân, Có tu viện Dòng Mến
Thánh Giá và một viện dục anh nuôi trẻ em mồ côi. Thời gian đầu năm 1886, trong
khi các giáo xứ nam Quảng Bình như Mỹ Hương, Mỹ Phước, Trung Quán, Xuân Hồi còn
yên ổn thì các giáo xứ ở Quảng Trị, chủng viện An Ninh bị tấn công. Cha Héry
tới xin đồn Pháp đóng ở cửa Đồng Hới một số súng ống nhưng bị từ chối vì trước
đó họ đã giúp cho cố hai lần một số vũ khí và ngài đã chở vào giúp cho giáo xứ
và chủng viện An Ninh khoảng tháng 9.1886.
Không trông chờ được sự giúp đỡ của người Pháp, các giáo xứ
nam Quảng Bình khi bị Văn Thân tấn công phải tự cứu mình trong hoàn cảnh khẩn
trương. Lúc bấy giờ đại đa số giáo dân bỏ chạy về giáo xứ Sáo Bùn nên giáo xứ
Sáo Bùn trở thành một khu tị nạn lớn. Mặc dù khó khăn nhưng giáo dân Sáo Bùn
hết lòng cưu mang, giúp đỡ anh chị em của mình. Cha Héry đã lo tổ chức cứu trợ
rất tận tình, chu đáo.
Sau đó, tình hình trở lại yên ổn và mọi người ai nấy trở về giáo xứ của mình.
Ngày 14.6.1886, được phép của giáo quyền, linh mục Héry rời Sáo Bùn qua Hồng
Kông chữa bệnh, sau 6 năm làm quản nhiệm ở đây. Sau đó cha Héry về Pháp và năm
1906 ngài qua đời tại đó.
Linh mục Claude Bonin (tên Việt là Ninh) đến thay cố Y làm quản xứ Sáo Bùn.
Nhận được giáo xứ sau mười ngày, thì ngày 24.6.1886 quân Văn Thân bất ngờ tấn
công Sáo Bùn, một mặt đốt phá nha dân chúng, một mặt tấn công nhà thờ giết 52
giáo dân đang trốn ở đó. Một số lớn giáo dân khác chạy về ẩn núp tại Đồng Hới.
Linh mục Bonin nhanh chân xuống ghe chèo ra Đồng Hới cùng với giáo dân.
Ngày 5.8.1886, quân Văn Thân do tên chỉ huy tên là Cộc đánh vào thành Đồng Hới
nhưng thất bại. Trong trận này có 3 giáo dân Sáo Bùn bị tử thương.
Một biến cố khác có liên hệ tới giáo xứ Sáo Bùn là việc quân Văn Thân tấn công
giáo xứ Mỹ Phước, bắt cha sở Tống Viết Cơ đem đi giết. Giáo dân chạy vào nhà
thờ nên quân Văn Thân đốt nhà thờ thiêu sát khoảng 442 người ngày 13.1.1886.
Cùng bị bắt với cha sở Tống Viết Cơ và bị giết có một nữ tu Dòng Mến Thánh Giá
ở tu viện Nhu Lý tên là Y [18] Theo Bulletin Des Amis Du Vieux Hué tháng 7-8
năm 1941, tr. 297-298.
Khi xảy ra thảm kịch nói trên, linh mục Héry đến đồn Pháp ở
cửa Đồng Hới xin giúp đỡ. Chỉ huy trưởng người Pháp cho một tiểu đội theo cha
Héry lên giáo xứ Mỹ Hương tìm không gặp được ai cả. Tất cả giáo dân chạy trốn
sau những động cát ngoài bờ biển. Cha Héry đã đi tìm và gặp được họ đang sợ hãi
ẩn náu ở đó nên đưa tất cả về tạm trú tại ba địa điểm: Sáo Bùn, Sáo Cát Thượng
và Sáo Cát Hạ. Số giáo dân này gồm có 50 nữ tu, các trẻ em mồ coi viện Dục anh
và 410 giáo dân họ đạo Mỹ Hương [17].
Theo linh mục Nguyễn Văn Ngọc, cuối năm 1886, linh mục Bonin
lập trại định cư trên sở đất gần cửa Đồng Hới gọi tên mới là Tam Tòa gồm có dân
Sáo Bùn, và một số đông giáo dân Mỹ Hương, Mỹ Phước, Trung Quán, Mỹ Duyệt. [18]
Linh mục Cadière, trong cuốn sách Les lieux historiques du Quảng Bình, có viết:
“Ở giữa trại lính là một cái miếu mỗi năm đều có lễ tế
các tử sĩ trận vong đã hy sinh vì xứ sở trong việc bảo vệ lũy. Muốn tới đó
người ta phải qua một cổng khoét ở tường thành. Ở trung tâm nơi này ngày xưa có
ba tòa miếu nên do đó có tên Tam Tòa mà người công giáo hiện đang chiếm cư trại
đó.” [19] Căn cứ theo sự sưu khảo của nhà Quảng Bình học Nguyễn Tú
(1920-2006), “trước Cách mạng tháng 8-1945, phường Đồng Mỹ bao gồm làng Lệ
Mỹ và họ giáo Tam Tòa. Địa giới phường này từ cầu Mụ Kề đến Khe Nước (Khe này
có vị trí tương đương với con mương phóng thủy ở Hải Thành hiện nay). Một con
đường duy nhất đi suốt chiều dài phường Đồng Mỹ, cũn bắt đầu từ phía cầu Mụ Kề
đến Khe Nước. Mùa hè, khe cạn, con đường có thể cho xe vượt qua để đi tiếp đến
bãi tắm Nhật Lệ. Họ giáo Tam Tòa ăn ở tập trung trên chiều dài dọc con lộ này,
đến trước mặt nhà thờ thì có một con đường cắt ngang thẳng từ nhà thờ đến đường
quốc lộ hiện nay.” [20]
Tác giả Nguyễn Tú cho biết thêm: “Người làng Lệ Mỹ là một
vạn chài, sinh sống bằng nghề cá trên sông, biển, lênh đênh mạn thuyền, ít
người sống trên đất, nên phường Đồng Mỹ, dân cư chủ yếu là họ giáo Tam Tòa.. Họ
giáo này không phải là người bản địa ở làng Lệ Mỹ mà họ có sự khai thiết từ thế
kỷ XVII. Ngày nay, chúng ta quen gọi Tam Tòa như một địa danh làng xóm, nhưng
thực ra, Tam Tòa là nơi ba cái miếu thờ: Cửu Thiên huyền nữ, Liễu Hạnh công
chúa và Huyền Trân công chúa.”
Sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển VII chép
về Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, nói “năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) dựng hai miếu Hội
Đồng và Tam Tòa ở Quảng Bình. Miếu Hội Đồng ở xã Lương Yến huyện Phong Lộc (nay
là xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh); miếu Tam Tòa ở ngoài lũy Nhật Lệ (tức
phường Đồng Mỹ ngày nay).” [21]
Ngày nay, dù bối cảnh lịch sử có khác nhưng tâm tình hiệp thông giữa các vị mục
tử với đàn chiên, cụ thể là qua biến cố Tam Tòa ngày 20-7-2009 đã được nâng lên
tầm mức cao hơn. Thực chất của biến cố ngày nay cũng không khác gì cốt lõi của
sự kiện lịch sử ngày trước với cảnh các vị chủ chăn lên tiếng đòi hỏi cho Công
lý và Sự thật mà bị đánh đập, sách nhiễu, lăng mạ, chửi rủa. Riêng trong biến
cố Tam Tòa, có thể so sánh Giám Mục Cao Đình Thuyên của Giáo phận Vinh với Giám
Mục Joseph Hyacinthe Sohier (tên Việt là Bình) của Giáo phận Huế. Các linh mục
Lê Thanh Hồng, Nguyễn Đình Phú, Ngô Thế Bính là hậu thân của các linh mục
Manuel Nguyễn Văn Bổn, Lôrensô Huỳnh Văn Lâu, Gioan Đoạn Trinh Hoan, biểu trưng
sự gắn bó nhiệt thành, sự hiểu biết sâu sắc giữa mục tử và đàn chiên.
Tất cả đều gợi nhớ lại nội dung của Tân Ước nói về vai trò
mục tử. Chỉ khác là ngày nay hệ thống truyền thông từ hai phía thống trị và bị
trị đều đã nhập cuộc trong một thế trận sống mái, quyết liệt. Chính Đức Tổng
Giám Mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt đã công khai phủ nhận quan hệ xin – cho trong
tôn giáo. Đức Giám Mục Cao Đình Thuyên bày tỏ một tình hiệp thông sâu đậm khi
tuyên bố “Việc của Thái Hà cũng là việc của Giáo phận Vinh, việc của Vinh
cũng là việc của Thái Hà” và cho biết Giáo hội không chủ trương bạo động,
không đòi lật đổ chính quyền mà chỉ đòi Công lý và Sự thật.
Qua biến cố Tam Tòa, chúng ta học được nhiều bài học lịch sử
chẳng những của quá khứ mà còn của cả hiện tại thể hiện trong vai trò của các
vị mục tử nhân lành. Dĩ nhiên vai trò đó không chỉ xuất hiện trong thời buổi
khó khăn, nghĩa là lúc Giáo hội bị bách hại, mà còn cả trong thời gian yên ổn
khi Giáo hội được tự do rao giảng Tin Mừng mà việc tổ chức Năm Thánh Cầu Cho
Linh Mục càng có thêm ý nghĩa đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Nguyễn
Đức Cung New Jersey Sept. 11, 2009
CHÚ THÍCH:
1.-Gio-an 10: 11-13; Nhóm phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ, Kinh Thánh Tân
Ước, Tòa Tổng giám mục Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, 1994, trang 438.
2.- R. P. Cadière, Missionnaire apostolique, Les lieux historiques du Quảng
Bình, B.E.F.E.O, No. 3, 1903,
3.- Thư của Labartette, viết ngày 23.6.1786, Documents, trang 14, dẫn lại theo
Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn, Nhà xuất bản Khai
Trí, Sài Gòn, 1967, trang 327.
4.-Thư giáo sĩ Longer cho Giám đốc nhà Dòng các Phái đoàn Truyền giáo,
14.4.1792 (A. Launay, III, t. 239, dẫn lại theo Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử
nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến 1802, Nxb. Văn Sử Học, 1973, tr. 309.
5.- Thư giáo sĩ Longer cho Giám đốc nhà Dòng các Phái đoàn truyền giáo, Tonkin,
3.6.1799 (A. Launay, III, t. 250, dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, Sđd, tr. 309.
6.- Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, Cứu Thế Tùng Thư xb. Quyển I,
1965, tr. 247.
7.- Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, Cứu Thế Tùng Thư xb., bản in lần
hai, 1965, quyển I, tr. 327.
8.- Phan Phát Huồn, Sách đã dẫn, tr. 319.
9.- Phan Phát Huồn, Sđd, tr. 450.
10.- Trần Văn Toàn, Đạo Trung Tùy Bút, Nxb. Tôn Giáo, 2008, tr. 86.
11.- Nguyễn Đức Cung, Quảng Bình chín trăm năm nhìn lại, Nxb. Nhật-Lệ,
2006, Quyển I, 2006, tr. 563.
12.- Henri Bernard-Maitre, Sage chinoise et Philosophie chrétienne, in tại
Sienhsien, Trung Quốc, 1935.
13.- Louvet, La Cochinchine religieuse, II, 200, dẫn lại theo Phan Phát
Huồn, Sđd, tr. 416-417.
14.- Phan Phát Huồn, Sđd, tr. 416.
15.- Linh mục Nguyễn Văn Hội, Tiểu sử các linh mục Giáo phận Huế, Tài
liệu đánh máy, tr. 63.
16.- Lữ Giang, Tam Tòa: Nối tiếp gương các Thánh Tử Đạo, VietCatholic
News, Aug. 01.2009
17.- Lm Nguyễn Văn Ngọc, Trang sử giáo xứ Quảng Bình. Tlđd, tr. 23.
18.- Lm Nguyễn Văn Ngọc, Tư liệu đã dẫn, tr. 23-24.
19.- Léopold Cadière, Sđd, tr. 181.
20.- Nguyễn Tú, Địa chí Đồng Hới, Trung Tâm VNTT Thị xã Đồng Hới, 2000,
tr. 149.
21.- Nguyễn Tú, Sđd, tr. 149.
Nguyễn Đức Cung
Tuyên Cáo 39 Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ Phản Đối Nhà Cầm Quyền CS Việt Nam Đàn Áp Giáo Dân Tam Toà
Xét rằng:
Tự do tín ngưỡng là một quyền tự do căn bản, bất khả xâm phạm của con người đã được nhà cầm quyền CSVN thừa nhận trong Hiến Pháp và ký cam kết tôn trọng trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Xét rằng:
Dưới chế độ độc tài đảng trị Cộng Sản, người dân Việt Nam chưa bao giờ được hưởng những quyền tự do căn bản kể cả quyền tự do tín ngưỡng, và chưa bao giờ có được những sinh hoạt dân chủ.
Xét rằng:
Nhà cầm quyền CSVN đã để lực lượng công an địa phương dùng hơi cay, roi điện… đánh đập giáo dân đến dự thánh lễ tại Nhà Thờ Tam Tòa, Thành Phố Đồng Hới, Tỉnh Quảng Bình, ngày 20 tháng 7 năm 2009. Cuộc đàn áp dã man đã gây thương tích nặng nề cho một số giáo dân và cả các vị Linh Mục (ít nhất đến lúc này 3 Linh Mục đã bị trọng thương.)
Công an cũng bắt giam một số giáo dân khác, và tự tiện tịch thu thánh giá của Nhà Thờ cùng một số vật dụng của giáo dân mà không lập biên bản.Giáo dân Tam Tòa bị khủng bố tinh thần suốt tuần và đến Chủ Nhật ngày 26 tháng 7 năm 2009, bọn côn đồ do công an cải trang lại tiếp tục ngăn cấm, đánh đập giáo dân các giáo xứ chung quanh kéo về Tam Tòa dự thánh lễ.
Vì vậy Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ trân trọng tuyên bố:
1.Khẳng định lập trường quốc gia là hướng đi chân chính của con đường xây dựng một Việt Nam tự do, dân chủ và phú cường.
2.Nguyện sát cánh cùng đồng bào quốc nội quyết tâm phế bỏ chế độ độc tài đảng trị CSVN, theo khát vọng tự do, dân chủ chính đáng của toàn dân.
3.Cực lực lên án hành động đàn áp, khủng bố người dân khi họ thực thi quyền tự do tín ngưỡng được ấn định trong Hiến Pháp Nhà Nước CHXHCNVN.
4.Đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của toàn dân, chấm dứt lập tức những hành vi đàn áp tôn giáo.
5.Đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN trả tự do tức khắc, vô-điều-kiện cho những giáo dân đã bị bắt giam vô cớ và hoàn trả tất cả tài sản đã tịch thu trái phép lại cho Giáo Xứ Tam Toà và giáo dân.
6.Hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Xứ Tam Toà, cho hoà bình và công lý trên quê hương Việt Nam và nhiệt liệt ủng hộ giáo dân Tam Toà cũng như mọi tôn giáo khác đang bị bách hại khi thực thi quyền tự do tín ngưỡng.
7.Kêu gọi quốc tế lên án những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN điển hình gần đây nhất qua hành động đàn áp dã man của chính quyền tỉnh Quảng Bình.
8.Kêu gọi quốc tế dùng ảnh hưởng ngoại giao và kinh tế áp lực nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng Luật Quốc Tế Nhân Quyền, Hiến Chương LHQ mà họ đã ký kết.
Làm tại Hoa Kỳ, ngày 31 tháng 7 năm 2009 Thay mặt Hội Đồng Đại Diện Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ
Nguyễn Văn TánhChủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu
Nguyễn Văn Tần Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành Trung Ương
Bản sao:HĐCH, HĐGS, Hồ Sơ Lưu, LHQ, QHHK, QHÂC
Danh sách các tổ chức Cộng Đồng tại Hoa Kỳ
1.CĐ Dallas, TX 2.CĐ Austin, TX 3.CĐ Houston, TX 4.CĐ Tarrant County, TX 5.CĐ San Antonio, TX 6.CĐ Northern California 7.CĐ Southern California 8.CĐ Hawaii 9.CĐ Jacksonville, FL 10.CĐ Florida| 11.CĐ Orlando, FL 12.CĐ Tampa Bay, FL 13.CĐ Fort Smith, AK 14.CĐ Georgia 15.CĐ Michigan 16.CĐ Grand Rapid, MI 17.CĐ Holland, MI 18.CĐ Kansas City, MO 19.CĐ Wichita, KS 20.CĐ Massachusetts 21.CĐ New Hamshire 22.CĐ Lebanon, PA 23.CĐ Allentown, PA 24.CĐ Reading, PA 25.CĐ Bethlehem, PA 26.CĐ Northeast Pensylvania 27.CĐ Oklahoma 28.CĐ New York,NY 29.CĐ Southern New Jersey, NJ 30.CĐ Philadelphia 31.CĐ Lancaster, PA 32.CĐ Saint Louis 33.CĐ Pomona, CA 34.CĐ New Jersey 35.CĐ Pensacola, FL 36.CĐ Southern Florida 37.CĐ Colorado 38.CĐ Minnesota 39.CĐ Sonoma, CA