Trần Phong Vũ: Tam Tòa đang đi vào những trang Sử hào hùng rực sáng !
Kính thưa quý vị quý bạn, nhà văn Trần Phong Vũ, chủ bút nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân từ Hoa Kỳ gởi tâm tình liên đới và cầu nguyện hiệp thông cùng quý Linh mục Tu sĩ Giáo Dân tại Tam Tòa giáo phận Vinh. (bấm nghe âm thanh)
Tam Tòa đang đi vào những trang sử hào hùng rực sáng
Trần Phong Vũ
Hải ngoại ngày 29 tháng 7, 2009
Kính thưa quý linh mục, tu sĩ nam nữ
và quý bà con đồng đạo tại Tam Tòa, giáo phận Vinh.
Trong tâm tình liên đới, hiệp thông sâu xa của những Con Cái Chúa, từ miền nam California, Hoa Kỳ, tôi là Trần Phong Vũ, thay mặt cho mấy ngàn độc giả nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân, xin gửi tới quý vị những lời chào bình an trong Chúa Giêsu Cứu Thế, Chúa chúng ta.
Dù cách xa ngàn vạn dậm, nhưng giây phút này, tôi vẫn hình dung ra trước mắt hình ảnh đau thương, tang tóc của Tam Tòa khi những lực lượng vũ trang cộng sản kéo tới bao vây giáo xứ, khủng bố giáo dân, triệt hạ Thánh Giá, biểu tượng thiêng liêng cao cả của người Công giáo chúng ta!
Từ đáy thẳm tâm tư, tôi không khỏi cảm thấy nhói đau khi thấy lại hình ảnh chị Yên, ca đoàn phó Tam Tòa, người con trai 8 tuổi của chị, Cha Phaolô Nguyễn Đình Phú, Giáo hạt Kỳ Anh, cha Phêrô Ngô Thế Bính, Giáo hạt Hà Lời và biết bao tín hữu hiền lương vô tội khác đã bị bọn côn đồ đánh đập tàn nhẫn, trước thái độ dửng dưng, vô cảm, đồng lõa của công an nhà nước.
Thoắt chốc, tôi liên tưởng tới những tấm gương hào hùng bất khuất của tiền nhân tại những vùng trời đã từng sản ra biết bao anh hùng tử đạo. Cũng từ nơi ấy, hơn nửa thế kỷ trước, địa danh Quỳnh Lưu của Giáo Phận Vinh đã đi vào lịch sử hào hùng của Giáo hội.
Sóng vỗ lớp sau như lớp trước.
Đấy là định luật ngàn đời.
Do sự thúc đẩy của lòng tin, nếu hôm qua có cả trăm ngàn Tổ Tiên chúng ta đã can trường chấp nhận đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng Đấng Cứu Thế, thì hôm nay, tại Tam Tòa cũng như tại nhiều nơi trên quê hương Việt Nam, con cháu của các Ngài vẫn một lòng sát cánh bảo vệ Đức Tin, bất chấp mọi mưu chước gian ngoan, ác độc của kẻ thù.
Kính thưa quý linh mục, tu sĩ nam nữ
và bà con đồng đạo giáo phận Vinh,
Dù cách xa nửa vòng trái đất, cũng như cả triệu đồng bào, đồng đạo đang sinh sống trong các cộng đồng Việt Nam tị nạn ở hải ngoại, cá nhân chúng tôi không nén được lòng xúc cảm khi hình dung ra trước mắt hình ảnh hàng mấy trăm ngàn tín hữu lũ lượt đổ về các Thánh Đường trong 18 giáo hạt thuộc Giáo phận Vinh hôm Chúa Nhật 26-7 vừa qua, để cùng hiệp thông cầu nguyện cho Tam Tòa trong cơn bách hại.
Cũng như Quỳnh Lưu hơn nửa thế kỷ trước, địa danh Tam Tòa cùng với những địa danh Xã Đoài, Cầu Rầm, Cẩm Xuyên, Vạn Lộc, Thuận Nghĩa, Hướng Phương vân vân… đã và đang đi vào những trang sử hào hùng rực sáng của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bất diệt.
Xin cho chúng tôi là những phần chi thể của Giáo Hội Mẹ đang sống gửi trên khắp bốn phương trời hải ngoại được chia sớt cùng quý cha, quý tu sĩ nam nữ và bà con Giáo phận Vinh niềm đau nỗi nhục, nhưng không thiếu hào hùng và phấn khởi hôm nay.
Nguyện xin Chúa Giêsu qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria La Vang, ban thêm Đức Tin, Sức Mạnh, lòng Can Đảm cho từng người, từng gia đình, từng họ đạo, giáo xứ, để mọi người vượt thắng được mọi gian lao, khổ nhục, khốn khó trong những ngày huyết hãn này, và xin cho biến cố Tam Tòa trở thành ngọn đuốc thiêu rụi những thế lực gian ác đang đe dọa Giáo hội và Quê Hương chúng ta.
Thân ái trong tâm tình liên đới hiệp thông của Con Cái Chúa.
1. Tin 2 Linh Mục và một số giáo dân Vinh bị nhóm "côn đồ" đánh đập tại Tam Tòa trước sự chứng kiến của những người mang sắc phục công an, làm cho dư luận khắp nơi thêm phẫn nộ, bàng hoàng, lo lắng. Nhiều nơi điện thoại về Tòa Giám Mục thăm hỏi tình hình và phỏng vấn. Cha Fx. Võ Thanh Tâm - Tổng Đại Diện Giáo Phận Vinh đã xác định chắc chắn có sự việc trên.
2. Chiều 27/7/2009, Linh Mục Phao Lô Nguyễn Đình Phú và mấy giáo dân bị đánh trọng thương về tới Kỳ Anh (Hà Tĩnh). 21 giờ cùng ngày, Linh Mục Phêrô Ngô Thế Bính được đưa về phòng khám đa khoa của Tòa Giám Mục Xã Đoài. Giáo dân kéo đến, thấy cảnh Linh Mục bị đánh bầm dập mặt mũi và thân thể mang nhiều vết thương đã không thể kiềm nén được sự phẫn uất của mình. Không khí sục sôi.
3. Chiều 27/7/2009, Tòa Giám Mục nhận được tin chị Yên bị công an Quảng Bình tới nhà mang đi. Hôm 26/7/2009, được thả về. Lúc 01 giờ sáng 28/7/2009, Tòa Giám Mục nhận được tin anh Thống bị mang đi hôm 26/7/2009, lúc đó đang bị công an tống ra đường.
4. Sáng 28/7/2009, phái đoàn Tòa Giám Mục vào thăm Cha Phú tại Giáo xứ của ngài coi sóc. Được cha Phú kể lại, phái đoàn hiểu thêm âm mưu ác độc của nhóm côn đồ và những kẻ tiếp tay trong sắc phục công an đứng chứng kiến cảnh tượng kinh khủng đó. Ngài nói, chỉ trước đó mấy phút, khi xe của ngài vừa đậu tại phần đất gần nền nhà thờ Tam Tòa thì nhóm côn đồ ập tới đánh ngài và các giáo dân cùng đi.
5. Tại phòng khám Tòa Giám Mục, từng đoàn người đến thăm Cha Bính và hỏi thăm sự thể. Dù bị đau đớn, ngài vẫn cố kể lại những hành động của nhóm côn đồ, đánh hội đồng trước sự chứng kiến của công an Quảng Bình, làm cho không khí căng thẳng lan nhanh khắp Giáo Phận Vinh. Cha Tổng Đại Diện và các Linh Mục tại Toà Giám Mục cố trấn an mọi người bình tĩnh, cầu nguyện, với ý thức rằng hành động của ma quỷ rất dễ lún sâu trong vũng lầy nhơ nhớp của nó. Còn con cái Chúa phải chiến đấu với quỷ ma bằng cách thế khôn ngoan như lời Chúa dạy.
6. Tối 28/7/2009, một số gia đình có nạn nhân đang bị công an Quảng Bình bắt giữ báo cho Tòa Giám Mục biết là chính quyền địa phương đề nghị tới "làm thủ tục" đón người nhà về. Rồi cả ngày 29/7 vấn đề đó cũng chưa xong!
7. Chiều 29/7/2009 phái đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội tới Tòa Giám Mục thăm Giáo Phận Vinh và gởi quà thăm anh chị em giáo dân Tam Tòa.
8. Ngày 30/7/2009, vào lúc 10 giờ, ông Nguyễn Đức Thịnh -- Vụ Phó Vụ Công Giáo và bà Đào Thị Đượm -- chuyên viên Công Giáo thuộc Ban Tôn Giáo chính phủ Việt Nam đã tới Tòa Giám Mục gặp và trao đổi với Linh Mục Võ Thanh Tâm -- Tổng Đại Diện Giáo Phận Vinh cùng với Linh Mục Phạm Đình Phùng -- Chánh Văn Phòng Tòa Giám Mục Xã Đoài. Tại cuộc gặp này, đại diện Ban Tôn Giáo chính phủ muốn nghe những ý kiến từ Giáo Phận Vinh. Linh Mục Tổng Đại Diện lần lượt nêu lên các ý sau đây:
-- Sự việc Tam Tòa lúc đầu chỉ là việc nhỏ. Giáo dân chỉ đến dựng cái lán che trên nền nhà thờ Tam Tòa, nền đất thánh thiêng của giáo dân Tam Tòa suốt mấy trăm năm qua. Thế mà công an Quảng Bình đã đánh đập tàn nhẫn, bắt giữ trái phép giáo dân, chiếm đoạt Thánh Giá -- biểu tượng cao quý của người Công Giáo, chiếm đoạt tài sản của Giáo Hội và của giáo dân, rồi lại tiếp tục sa vào sai lầm khi 2 Linh Mục và một số giáo dân bị đánh trọng thương, càng làm cho dư luận ngày càng thêm bất bình phẫn uất. Cha Tổng nói: "Chính tôi là người đã vào Tam Tòa thăm các nạn nhân. Họ kể và tôi thấy những vết thương bầm tím trên người họ mà xót xa đau đớn".
-- Về phía Giáo Hội, chúng tôi cố gắng trấn an dân chúng. Họ sục sôi vì những hành động tàn nhẫn của công an Quảng Bình.
-- Chúng tôi tự hỏi: nếu UBND tỉnh Quảng Bình nói chỉ có giáo dân và lương dân xô xát với nhau, vậy tại sao công an chỉ bắt giữ giáo dân, đánh đập, giam cả 10 ngày nay rồi, mà lại không bắt một ai là lương dân ?
-- Nếu công an nói rằng họ đến để dẹp việc gây rối trật tự công cộng, thì tại sao lại lấy hết các máy quay phim, chụp hình của giáo dân, tới nay cũng chưa trả lại. Nếu họ làm việc chính nghĩa, thì phải để cho dân thấy chứ ?
-- Và nếu công an đến để dẹp việc gây rối, thì tại sao lấy hết tất cả, từ Thánh Giá, khung sắt, tôn lợp, xe cộ, máy phát điện, thức ăn, cả đến tiền bạc của giáo dân mà không lập biên bản gì cả ?
-- Cụ thể hơn cả là tại sao trong mấy ngày qua, công an không bắt nhóm "côn đồ" đông tới hàng trăm, đánh đập 2 Linh Mục và các giáo dân trong ngày 27/7/2009 ?
9. Sau khi nghe những lời trình bày của Linh Mục Tổng Đại Diện và Linh Mục Chánh Văn Phòng, đại diện Ban Tôn Giáo chính phủ hiểu rõ hơn vấn đề và muốn được Tòa Giám Mục đưa ra những đề xuất. Tòa Giám Mục lập lại những yêu cầu từ ban đầu:
-- Thả ngay, thả hết những giáo dân bị công an Quảng Bình đánh đập và đang bị bắt giữ.
-- Săn sóc, chữa lành những giáo dân bị công an đánh đập.
-- Bồi thường tại chỗ lán che của Giáo xứ Tam Tòa.
-- Trả lại Thánh Giá, trả lại tài sản của Giáo Hội và tài sản của giáo dân.
-- Dừng ngay việc xuyên tạc sự thật, bôi nhọ tôn giáo, kích động hận thù, gây chia rẽ khối đoàn kết lương giáo.
-- Còn việc 2 Linh Mục và các giáo dân bị đánh đập, UBND tỉnh Quảng Bình phải chịu trách nhiệm việc chữa trị, lo thuốc men và phải xét xử những kẻ "côn đồ" theo pháp luật.
10. Lúc 18 giờ ngày 30/7/2009, Tòa Giám Mục nhận được tin từ người nhà của các nạn nhân cho biết: công an Quảng Bình đã thả thêm 4 giáo dân bị bắt giữ từ ngày 20/7/2009. Hiện còn 3 giáo dân bị giữ. Còn ông Nguyễn Công Lý bị mang đi ngày 26/7/2009 đã được thả ngày sau đó.
Xin mọi người tiếp tục hiệp ý cầu nguyện và thể hiện tình yêu thương liên đới với Tam Tòa.
Văn Phòng Thư Ký Tòa Giám Mục
Chánh Văn Phòng
(Đã ký và đóng dấu)
Linh Mục Antôn Phạm Đình Phùng
Bishop celebrates Mass on the land in dispute despite threats
VietCatholic News (08 Feb 2009 03:13)
The Church in Vietnam clashes again with the communist government over the ownership of a historic church in the central of the country.
Despite threats from the government, Bishop Paul Maria Cao Dinh Thuyen and 14 priests of the diocese of Vinh (334 km South of Hanoi), on Feb 2, 2009, concelebrated Mass at the church of Tam Toa which has been seized by the government since 1997. Thousands of Catholics attended the Mass to support the brave decision of the diocese to reclaim the church, one of many properties seized at the liberty of the Communist government since they came to power.
The church of Tam Toa, built in Portuguese architecture with a typical large bell, inaugurated in 1887, was known to be one of the most beautiful churches in Vietnam. Unfortunately in 1968, it became the casualty of US Air Force's bombing in which most of its parts were destroyed except the entrance and the bell tower which still stands firm today.
Long after the U.S. bombardment ended, parishioners in this congregation were so impoverished that they could not rebuild their church. However, mass had still been celebrated on the ground of the bombed church on a regular basis until March 1996 when the People's Committee of Quang Binh province confiscated the church stating that it was chosen a "site of War Memorial" and "must be preserved and protected for future generations to remember American War Crimes."
The archdiocese of Hue immediately protested the decree but in no vain. In May 2006, the parish was transferred to Vinh diocese. Bishop Paul Maria Cao has since then repeatedly asked for the requisition of the church. All of his petitions have gone into deaf ears.
Recently, tensions between the Church and the government have boiled over after rumors on plans to convert the church into a tourist resort.
For Vietnamese Catholics, Tam Toa is a historic parish. It can trace its origins back to 1631 in early years of the Church in Vietnam. The parish had grown up quickly during the 17th century and was the largest parish in the region called Sao Bun with up to 1200 Catholics. There had once been an orphanage and a school being operated by the Sisters of Cross Lovers.
In 1886, a group of cultured men, who were highly anti Westerners, calling themselves "Van Than", attacked the parish of Tam Toa killing 52 parishioners for what it considered retaliation against the French presence in Vietnam. Many Christians who survived the massacre by fleeing to take shelter in Dong Hoi. Tam Toa church was erected a year later to fulfil the spiritual needs for a growing number of faithful.
Tam Toa today is home parish to more than a thousand parishioners, many of whom are eager to renovate their church and to involve more people with religious activities as the way to foster their faith. But this effort has been stalled indefinitely by the government's interference with the usage of Tam Toa church. Their shepherd, Bishop Paul Maria Cao Dinh Thuyen understood that and he has come to show them his support. The final decision is in God's hand, for now the only thing they can start with is prayers.
Nhằm phản biện lời kêu gọi các nhà văn trong và ngoài nước ngồi lại với nhau để
“góp phần vào nỗ lực hòa hợp hòa giải dân tộc” của tác giả Tô Nhuận Vỹ trong
bài viết trên mạng lưới Talawas dịp Giáng Sinh 2007 vừa qua, với tư cách một
người cầm bút trong cộng đồng tị nạn, bác sĩ Trần Văn Tích đã mượn ý từ một
chương sách có tên là “Le Silence de la mer” để đặt cho bài viết của ông: “Sự
Im Lặng Của Biển Cả”.
Về một phương diện nào đó, hình ảnh này diễn tả phần nào bầu khí im lặng ngột
ngạt đến khó hiểu trong hàng giáo phẩm Công Giáo Việt Nam trước những hiện
tượng băng hoại kinh khiếp về những giá trị đạo đức, nhân luân trong xã hội
Việt Nam thời cộng sản (khi mà những sự kiện chống lại con người như thế vốn là
mục tiêu, là đích điểm hàng đầu đòi buộc những môn đệ Đấng Cứu Thế phải quan
tâm). Đến nỗi những mục tử như linh mục Nguyễn Văn Lý[1], Chân Tín, Nguyễn Hữu
Giải, Phan Văn Lợi phải cất lên tiếng nói Ngôn Sứ của mình, cho dẫu có phải
chấp nhận những đòn thù hiểm độc. Đến nỗi từng đoàn lũ những người Dân Oan
“nhếch nhác” từ khắp các miền quê trên ba miền đất nước phải kéo nhau về Vườn
Hoa Mai Xuân Thưởng Hànội, về các hè phố Sàigòn để ăn vạ.
Tuy nhiên, như bác sĩ Nguyễn Văn Tích nhận định “sự im lặng của biển cả mà sự
tĩnh lặng chỉ là bề ngoài”, hiện tượng “không lên tiếng công khai” của các nhà
lãnh đạo trong GHCGVN lâu nay phải chăng cũng mang một dạng thái tương tự? Bên
dưới cái bề mặt phẳng lặng của đại dương trong một ngày đẹp trời, vẫn ẩn tàng
những đợt sóng ngầm có khả năng nổi cơn thịnh nộ bất cứ lúc nào. Và phải chăng,
điều này đã lý giải cho những ước vọng, những khát khao bỏng cháy tiềm ẩn bên
trong và đang sau làn sóng cầu nguyện của tập thể tín hữu Công Giáo đang lan
tràn trên khắp lãnh thổ sau lá thư luân lưu của đức cha Ngô Quang Kiệt, TGM
Hànội ngày 15-12-2007 vừa qua?
II.- Từ
Hànội đến Sàigòn
Trong bài “Mùa Xuân của Giáo Hội”[2] người viết từng nhận định: “Cầu nguyện là
bản chất của người Kitô hữu…, là một cuộc đối thoại thân mật, không ngừng nghỉ
giữa con ngưởi với Thiên Chúa…, là sợi giây nối liền giữa đất và trời, giữa con
người với Thiên Chúa, nâng con người lên gần Đấng Tối Cao để Ngài đáp ứng những
khát vọng của họ, giúp họ giải quyết những vấn nạn ngoài tầm tay của mình”.
Trong những ngày cuối năm 2007 và đầu năm 2008, nhiều ngàn tín hữu Công Giáo ở
Hànội, ở Sàigòn đã tựu tập lại trong khuôn viên giáo đường, tu viện để cùng
nhau thắp nến cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện như thế đã khởi sự từ ngày
18-12-2007 kéo dài suốt thời gian vọng Giáng Sinh qua đầu năm mới dương lịch và
nhiều tuần sau đó tại tòa tổng giám mục Hànội, tràn qua khu vực tòa Khâm Sứ cũ,
tiếp theo là nhà thờ Thái Hà, nhà thờ Hà Đông.
Tại Sàigòn, tối Thứ Sáu 11-01-2008, khoảng trên 4000 giáo
dân cũng đã tựu về khuôn viên nhà Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng để hiệp thông
ý cầu nguyện với đồng bào đồng đạo của họ trên đất Bắc. Trong dịp này, một
Thánh Lễ đã được cử hành trang trọng với sự đồng tế của 23 linh mục Dòng Chúa
Cứu Thế và 2 linh mục Dòng Đa Minh.
Vì cầu nguyện là bản chất của người Kitô hữu. Do đó, trong chốn riêng tư, nơi
gia đình cũng như ở giáo đường, người tín hữu Công Giáo Việt Nam đã không ngớt
cầu nguyện. Ngoài tâm tình ngợi ca, cảm tạ Thiên Chúa, họ còn nài xin những ơn
cần thiết cho cá nhân, gia đình, Giáo Hội, Tổ Quốc và nói chung, cho cộng đồng
nhân loại.
Làn sóng cầu nguyện từ Hànội tràn vào Sàigòn từ lễ Giáng Sinh đến nay, có lúc
số giáo dân lên tới 4, 5 ngàn người và hàng trăm linh mục, tu sĩ, mang một màu
sắc khác, với nội dung và mục đích rõ rệt. Với tính cách tập thể, người tín hữu
Công Giáo tổng giáo phận Hànội xin Thiên Chúa lay chuyển trái tim chai đá của
những người cộng sản vô thần để họ qui hoàn tài sản và đất đai tòa Khâm Sứ cũ
cho Giáo HộI mà họ đã cướp đoạt lâu nay.
Trong khuôn viên Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn, ý cầu nguyện của
tập thể gíáo dân vươn tới một tầm mức cao hơn. Với sự hướng dẫn của quí linh
mục, tu sĩ, buổi canh thức thắp nến của hơn 4000 tín hữu tối Thứ Sáu 11-01 và
tối Thứ Tư 23-01-08 hướng vào ý chỉ cầu nguyện cho Hòa Bình và Công Lý. Lên
tiếng trong đêm canh thức cầu nguyện, hát kinh Hòa Bình lần đầu tại khuôn viên
nhà Dòng, linh mục Vũ Khởi Phụng minh nhiên nói với đám đông tín hữu của ông về
tình trạng công lý không được coi trọng, đời sống tâm linh bị suy thoái, nhân
phẩm, nhân quyền của người dân đã bị chà đạp. Cha nói nguyên văn như sau: “Xã hội hôm nay đã đánh mất tâm linh, lại
không còn công lý. Vì thế nhân phẩm con người không còn được tôn trọng, các
quyền căn bản của con người không còn được duy trì và bảo đảm đúng nghĩa !”
Cha Phụng cao giọng kêu gọi đám đông tín hữu trước mặt là hãy:
“Cầu nguyện cho xã hội chúng ta được đi
vào thế giới của sự thật, thế giới của nhân phẩm. Hãy đặt niềm tin nơi Thiên
Chúa để từ đấy thiết định niềm tin nơi con người... Chúng ta hãy cùng nhau lên
đường với tâm hồn nghèo khó, với tâm hồn hiền lành, với tâm hồn khát khao công
bằng và chân lý. Chúng ta hãy cùng nhau lên đường với trái tim biết thương xót
những con người nghèo hèn, bé mọn, chưa bao giờ được sống đích thực với nhân
phẩm của mình”.
Từ Việt Nam, trong một bài viết gửi lên mạng lưới toàn cầu Fiat 408 hai ngày
sau,
cha Lê Quang Uy, một linh mục trẻ cũng thuộc Dòng Chúa Cứu
Thế đã viết như sau:
“Thành ra, biểu tình của người Công Giáo
chẳng phải là để đòi mấy mảnh đất, mấy khu nhà dinh thự, cho dẫu những mảnh đất
ấy to tiền, những khu nhà ấy dùng được bao nhiêu là việc có ích đến đâu đi nữa.
Cái chính yếu lại là đòi cho công lý và hòa bình phải được thực thi.
Chiến tranh không còn nhưng chưa có hòa
bình thật sự đâu. Có cả một rừng luật và nghị quyết nhưng cũng chưa có công lý
tử tế đâu. Mà tôn giáo chân chính nào cũng vậy, luôn luôn mời gọi sống yêu
thương nhân ái, nên nếu có phải biểu tình và đấu tranh thì luôn luôn là bất bạo
động, ôn hòa, bao dung. Vì thế người Công Giáo chỉ có thắp nến cầu nguyện và
hát Kinh Hòa Bình suốt mấy tuần nay mà thôi!
Đừng nghĩ như thế là yếu, là hèn, hay là không tưởng! Không đâu, nó mạnh ở chỗ
đặt hết tin tưởng vào một Chúa ở trên cả Đảng, trên mọi thứ quyền lực bạo liệt
nhất của thế gian. Và nó cũng mạnh ở chỗ có khả năng liên kết được với mọi
người, lay động được lòng người, những người ở các tôn giáo khác nhau và cả nơi
những người vô thần, những người Cộng Sản thứ thiệt.
Không tin, xin đọc lại bài I-sai-a của ngày hôm nay, Lễ Chúa Giê-su chịu Phép
Rửa. Thiên Chúa, qua miệng Ngôn Sứ I-sai-a, giới thiệu trước về một Đấng sẽ đến
để cứu muôn dân rằng ( Is 42, 1 tt ):
‘Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ... Người sẽ không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, người không đành bẻ
gãy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Người sẽ trung thành làm sáng tỏ
công lý. Người không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý
trên địa cầu... Người sẽ làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những
ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ
ngồi trong chốn tối tăm’.
A ! Có đó tất cả những bà buôn thúng bán
bưng bị dẹp lòng lề đường, những bác đi đổ rác bị đe dọa tịch thu xe ba gác, những
chị xa quê bán ngô luộc sắp thất nghiệp, những anh công nhân bị vắt kiệt sức
lao động, tất cả cánh dân nghèo cùng khổ bị bức bách đều có mặt ở nơi Giê-su,
Người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, ở trong những ngọn nến sáng, ở trong
từng lời hát Kinh Hòa Bình. ‘Ôi Thần
Linh Thánh Ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy
thiện chí: Ơn An Bình...’” (Lm. QUANG UY, DCCT, Chúa Nhật 13.1.2008 – Fiat
408)
Hưởng ứng lời mời gọi của chủ chăn, hàng hàng lớp lớp những tín hữu Công Giáo
tổng giáo phận Hànội đã thắp nến cầu nguyện, hát Kinh Hòa Bình tại tòa Khâm Sứ
cũ, tại nhà thờ Thái Hà, nhà thờ Hà Đông để đòi lại phần đất đai, cơ sở đã bị
bạo quyền cưỡng đoạt. Và để tỏ tình liên đới với bà con đồng đạo trên đất Bắc
xa xôi, người tín hữu Công Giáo ở Sàigòn, nơi một thời được mệnh danh là Hòn
Ngọc Viễn Đông cũng hiệp dâng Thánh Lễ với linh mục, cũng thắp nến cầu nguyện,
hát Kinh Hòa Bình, một mặt để đòi lại cơ sở vật chất vốn của Giáo Hội, nhưng
mặt khác còn nhân danh Tin Mừng, nhân danh Tình Thương, nhân danh những thành
phần thấp cổ bé miệng trong xã hội để đòi lại nhân phẩm và những quyền năng căn
bản của con người.
Mong rằng đấy chính là những biểu hiện khởi đầu của những đợt sóng ngầm ẩn tảng
bên dưới cái bề mặt im lặng của đại dương.
Thử tưởng tượng: nếu những giáo xứ, những họ đạo, những tu viện tại 25 giáo
phận Công Giáo trên khắp ba miền đất nước cùng có những buổi cầu nguyện ôn hòa
như thế (và nhất là: nếu có sự hưởng ứng tương tự đồng loạt của các tín hữu
thuộc các hệ phái Tin Lành, của PGVNTN, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài) thì chuyện
gì sẽ xảy ra?
III.- Những phản ứng tiệm tiến có tính toán.
Đứng trước làn sóng đối kháng ôn hòa mang tính thánh thiêng bằng cầu nguyện của
tập thể tín hữu Công Giáo, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã bị du vào một
tình huống vô cùng khó khăn, nan giải. Với cao trào Dân Oan tìm về vườn hoa Mai
Xuân Thưởng ở Hànội và các đường phố Sàigòn ăn vạ đòi đất cũng như với những
cuộc biểu tình của sinh viên chống Trung Cộng ăn cướp hai đảo Trường Sa và Hoàng
Sa, dù cũng là những nan đề hết sức nhạy cảm, nhưng họ còn có thể nhân danh này
nọ để muối mặt dùng những biện pháp vũ phu.
Nhưng trước những buổi cầu nguyện với nội dung thuần túy tôn
giáo, chỉ diễn ra một cách ôn hòa tuyệt đối trong khuôn viên những nơi thờ tự
thì không dễ gì họ dám vọng động, khi mà Việt Nam của những năm đầu ngàn năm
thứ ba không còn là Việt Nam của thế kỷ trước. Có chăng sẽ chỉ là những lệnh
miệng cho những cấp nhỏ làm càn, để rồi sau đó, khi gặp phản ứng mạnh còn có
đường đổ vấy để chạy tội. Vụ cho tay chân đấp phá tượng Đức Mẹ Sầu Bi ở Nho
Quan cách nay ít lâu là một thí dụ điển hình.
Trong thế tiến thối lưỡng nan[3] , từng bước một, đảng và nhà nước bắt buộc
phải dùng lại những thủ đoạn quen thuộc là hù dọa, đe noi, khởi đầu bằng ngôn
từ, chữ nghĩa để mua thời gian, hầu áp dụng những đòn ly gián, gây nghị kỵ làm
nản lòng giáo dân bằng những mưu thuật gian ác. Trả lời cuộc phỏng vấn của đài
phát thanh BBC sau hôm Nguyễn Tấn Dũng tới thăm đức TGM Ngô Quang Kiệt là liệu
sự kiện này có dẫn tới kết quả là nhà cầm quyền trả lại khu đất tòa Khâm Sứ cũ
cho tổng giáo phận Hànội không, trưởng ban tôn giáo chính phủ là Nguyễn Thế
Doanh đã mạnh miệng quả quyết là không có chuyện đòi cũng như không có chuyện
trả, vì đất đai là tài sản của quốc gia do nhà nước quản lý!
Đến khi thấy những lời tuyên bố mang tính hù dọa của Nguyễn Thế Doanh không đạt
được kết quả, trái lại, dường như tình hình lại trở nên căng thẳng hơn, ngày
11-01-2008, phó chủ tịch UBND thành phố Hànội Ngô Thị Thanh Hằng đã gửi văn thư
số 273 UBND-VX đến đức cha Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGMVN và đức cha Ngô
Quang Kiệt TGM Hànội với những lời lẽ gắt gao cáo buộc những cuộc tập họp cầu
nguyện của giáo dân ở tòa Khâm Sứ cũ cũng như ở nhà thờ Thái Hà là vi phạm luật
pháp, là làm xáo trộn trật tự công cộng. Vì hiểu được thủ đoạn thăm dò của nhà
cầm quyền nên ba ngày sau, tòa TGM Hànội đã gửi văn thư số 08-VT/TGM 003, quyết
liệt phản bác tất cả những luận cứ của bà Hằng.
Ngày Thứ Sáu 25-01, chủ trương hù dọa để “rung cây nhát khỉ” tiến thêm một
bước. Một vụ hành hung công khai đã xảy ra trong khuôn viên tòa Khâm Sứ. Công
an chìm địa phương rượt đuổi, đánh đập một nữ giáo dân người miền núi trong khi
bà đang dâng hoa và cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi. Để tiếp cứu nạn nhân,
một số giáo dân đã phá sập cổng tràn vào và 4 người đã bị bạo hành, trong số có
luật sư Lê Quốc Quân, người từng bị công an bắt giam và mới được trả tự do, bị
gây thương tích ở tai. Tiếp theo, UBND Hànội đã ra hạn cho giáo dân phải triệt
hạ Thánh giá, ảnh tượng trong khuôn viên tòa Khâm Sứ cũ (!).
Nhìn chung, người ta có cảm tưởng như nhà nước sẽ có biện
pháp mạnh đối với chiến dịch cầu nguyện đòi tài sản, đất đai và xa hơn là nhân
quyền và công lý của tập thể tín hữu Công Giáo hiện nay. Tuy nhiên, đối với những
người đã có kinh nghiệm về cộng sản, hiểu được tâm lý “mềm nắn rắn buông” của
họ, sẽ nhận ra nó vẫn chỉ là những dòn thăm dò có tính toán mà thôi.
Đúng ngày xảy ra vụ bạo hành của công an chìm, khi ông JB Nguyễn Hữu Vinh nêu
câu hỏi với đức TGM Ngô Quang Kiệt là: “Nếu
như bất chấp điều đó, công an, cảnh sát cứ đàn áp, cứ bắt bỏ tù những người cầu
nguyện thì sao thưa Cha? Cha có tính đến khả năng đó không?”. Ngài đã thẳng
thắn trả lời như sau: “Tôi không nghĩ Nhà nước làm những điều đó với giáo dân
cầu nguyện ôn hòa, bất bạo động khi nhà nước luôn nêu cao việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Như đã nói ở trên, cầu nguyện là đời sống, là hơi thở của
người tín hữu Kitô để hiệp nhất với Thiên Chúa. Không ai có quyền cấm giáo dân
cầu nguyện”.
Ngài khảng khái nói tiếp: “Nhưng nếu có ai phải bị bắt vì cầu nguyện, bị đi tù, tôi
sẽ đi thay họ vì tôi là người kêu gọi họ cầu nguyện”.[4]
Dư luận đánh giá cao thái độ cứng rắn và dứt khoát của người cầm đầu tổng giáo
phận Hànội. Ý chí nhất tâm ủng hộ những buổi cầu nguyện của giáo dân Hànội của
các giám mục Nguyễn Văn Hòa. Giáo phận Nha Trang, Vũ Văn Thiên, Giáo phận Phát
Diệm, Đặng Văn Ngân, Giáo phận Lạng Sơn và nhiều chủ chăn thuộc các giáo phận
khác, bộc hiện qua nội dung những văn thư gửi đức TGM Ngô Quang Kiệt trong
những ngày qua, đã nói lên điều ấy.
IV.- Một
chuyện bất bình thường?
Giữa lúc làn sóng cầu nguyện đang lan rộng khắp nơi, đặc biệt là ở Sàigòn, thì
một sự kiện mới xuất hiện gây nhiều nghi kỵ và tranh cãi. Đó là nội dung những
bài nhật ký của đức cha Nguyễn Văn Sang, giám mục Thái Bình ghi lại vai trò
trung gian điều giải của ngài. Câu hỏi được công luận đặt ra là với tư cách gì
đức cha Sang đã sắm vai trò “con thoi” giữa “Ông-Nhà-Nước” và đức cha Ngô Quang
Kiệt, TGM Hànội? Trong nhật ký ngày 21-01-08, chính đức cha Sang phân bua như
sau “tôi không phải là người trung gian
chính thức giữa đôi bên, mà chỉ được cụ Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang
Kiệt ủy quyền miệng cho tôi đi thu xếp công việc này mà thôi.”
Dư luận tỏ ý hoài nghi tính xác thực của điều GM Sang úp mở
nói là được TGM Kiệt “ủy quyền miệng”. Người ta cho rằng: nếu cần phải nói gì
với nhà cầm quyền, với vị thế sẵn có, đức cha Kiệt có thừa cơ hội và điều kiện
để nói rõ quan điểm của mình, nhất là trong ngày cuối năm 2007, thủ tướng cộng
sản Nguyễn Tấn Dũng đã đích thân tới thăm ngài. Điều cần ghi nhận là cho đến
nay chưa có một lời xác nhận chính thức nào của tòa TGM Hànội về vai trò trung
gian của đức cha Sang.
Có hai giả thiết: một là giám mục Nguyễn Văn Sang ỷ mình có những liên hệ tốt
với nhà nước[5] nên đã tự đứng ra gánh lấy trách nhiệm. Hai là ông đã được nhà
nước “tiểu di” hoặc “bật đèn xanh” để làm công việc này, dĩ nhiên với những
tính toán riêng. Có điều dù ở trường hợp nào thì qua nội dung những trang gọi
là nhật ký được công bố rộng rãi trên các mạng lưới, ai cũng nhận ra những lời
đưa đẩy của giám mục Sang và những giải pháp do ông đề nghị chỉ có tác dụng gỡ
cho nhà nước khỏi thế bí, hay nói theo kiểu ví von của người bình dân Việt Nam
là “vẽ đường cho hươu chạy”.
Và như thế, vô hình chung đã tạo nên thế bất lợi cho chiến
dịch cầu nguyện vận động cho công lý và nhân quyền của người tín hữu Công Giáo.
Nhất là xét về nhân cách và quá khứ của giám mục Sang xuyên qua những chứng từ
còn lưu lại bằng giấy trắng mực đen của chính ông[6] người ta càng có thêm
nhiều lý do để hoài nghi thiện chí và thái độ của đương sự trong vụ này.
V.- Bài
học “cầu nguyện” của Ba Lan
Nhớ lại những căn nguyên sâu xa đưa tới sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản ở
Ba Lan ngót 20 năm trước, người ta chưa quên là vào những giai đoạn cam go
nhất, tập thể công nhân trong Công Đoàn Đoàn Kết cũng như người dân Ba Lan đã
tìm lại được sức mạnh, niềm tin để vượt thắng sự sợ hãi bằng lời cầu nguyện,
bằng tâm tình yêu mến Giáo Hội và quê hương Ba Lan của họ, qua lối sống đạo
đức, luôn gắn bó với Thiên Chúa và tấm gương can trường của người mục tử ốm
yếu, linh hướng của Công Đoàn: cha Jerzy Popieluszko.
Khi nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan
ban bố “tình trạng chiến tranh” vào ngày 13 tháng 12 năm 1981, một mặt cha Jerzy
tìm mọi cách để che chở các lãnh tụ Công Đoàn tại đào và giúp đỡ phương tiện
sinh sống cho vợ con họ, mặt khác, cha bắt đầu tổ chức những thánh lễ Misa được
gọi tên công khai là “Thánh Lễ Cầu Nguyện Cho Quê Hương” ngay tại
giáo đường Stanislaw dành cho mọi người dân Ba Lan.
Và trong rất nhiều Chúa Nhật, thánh lễ do linh mục Jerzy Popieluszko cử hành và
giảng thuyết đã lôi cuốn hàng chục ngàn người tham dự, trong đó bao gồm tất cả
mọi tầng lớp nhân dân tại thủ đô Varsovie kể cả những vùng xa xôiu hẻo lánh, từ
giời lao động cùng khổ tới các văn gia, nghệ sĩ, trí thức. Số người tham dự
đông đến nỗi tràn ra cả bên ngoài giáo đường.
Đề cập sức mạnh của lời cầu nguyện và ảnh hưởng những bài thuyết giảng của linh
mục Jerzy, trong một bài viết của John Fox[7] có đoạn ghi lại như sau:
“Một số công nhân hầm mỏ từ miền nam Ba
Lan quá xúc động khi hay tin về những Thánh Lễ đặc biệt này đã đánh liều tìm về
tham dự. Nhưng khi họ nhìn thấy vóc dáng nhỏ bé, ốm yếu của cha Jerzy trên bàn
thờ họ không khỏi thất vọng vì cảm thấy như bị đánh lừa. Họ tự nhủ: Vị linh mục
này không có vẻ gì là người anh hùng mà họ đã vẽ ra lâu nay trong trí tưởng
tượng.
Nhưng khi cha Jerzy bắt đầu thuyết giảng thì giọng nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, giống
như lời cầu nguyện đầy tín thác nơi quyền năng Thiên Chúa của Cha, tuy không
hùng hồn, không có ngôn từ, cử chỉ nào mang tính kích động, nhưng lại hàm súc
trong đó một sự lôi cuốn lạ thường, một sức mạnh tuyệt vời. Cha nói không giấu
giếm những điều mà họ thực tâm cảm thấy và mong mỏi được nói nhưng không thể
thốt ra bằng lời. Họ muốn “vùng dậy một lần sau nhưng đau đớn ê chề và tủi
nhục” như lời cha Jerzy nói với họ: “bởi vì các bạn không thể bị khuất phục một cách bất công
bởi bất cứ quyền lực bất chính nào của thế gian. Các bạn chỉ có một Đấng để quì
gối là Thiên Chúa mà thôi”.
Vẫn theo John Fox thì khi một nhà báo Tây phương nêu lên câu hỏi là những Thánh
Lễ cầu nguyện cho quê hương như thế có cần thiết không vì nó có thể gây nguy
hiểm cho linh mục Jerzy Popiekuszko thì một công nhân nhà máy thép ờ Varsovie
đã trả lời với tất cả tâm tình tín thác của anh như sau:
“Người ngoại cuộc, và nếu là người không có niềm tin, sẽ không thể nào hiểu
được những lời cầu nguyện và những Thánh Lễ Cầu Cho Quê Hương quan trọng như
thế nào đối với chúng tôi. Nó còn cần thiết hơn cả miếng cơm, manh áo”.
Noi theo sáng kiến của cha Jerzy, những buổi cầu nguyện và Thánh Lễ mang nội
dung cầu cho Giáo Hội và đất nước Ba Lan đã được rất nhiều linh mục tổ chức tại
các giáo xứ xa xôi trên toàn lãnh thổ. Nó đã trở thành một trong những yếu tố
hàng đầu vực dậy Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan, xua tan nỗi sợ hãi kinh niên trong
lòng người dân sau nhiều thập niên bị chủ nghĩa vô thần cộng sản không chế. Và
đấy cũng là nguyên động lực dẫn tới sự sụp đổ của chế độ độc tài Varsovie, kéo
theo sự tan rã giây chuyền của khối cộng sản Đông Âu và sau chót, đến tận hang
ổ cuối cùng của chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít là Liên Bang Xô Viết đầu thập niên
90.
Từ những “Thánh Lễ Cầu Nguyện cho Quê Hương” của các tín hữu Công Giáo Ba Lan
do linh mục Jerzy khởi xướng, chúng ta liên tưởng tới lời kêu gọi cầu nguyện
trong lá thư luân lưu của đức tổng giám mục Ngô Quang Kiệt gửi các linh mục, tu
sĩ nam nữ và giáo dân tổng giáo phận Hànội ngày 15-12-2007 và những buổi tập
họp để cầu nguyện của các tín hữu địa phương có lúc lên tới 5000 người trong
thời gian qua.
Những gì người dân ba Lan, trong đó
tuyệt đại đa số là tín hữu CG đã phải gánh chịu trước đây cũng là những chuyện
đã và đang xảy ra hàng ngày cho 84 triệu đồng bào ta hôm nay. Đất đai, sản
nghiệp của tư nhân bị cướp đoạt. Trường học, bệnh xá, các cơ sở xã hội và cả
nơi thờ phượng của các tôn giáo bị trưng thu dùng vào những việc bất chính. Và,
hơn hết thảy, mọi quyền tự do, dân chủ, nhân phẩm và quyền làm người của tuyệt
đại đa số 84 triệu đồng bào đã bị bạo quyền tước đoạt trắng trợn.
Người dân Ba Lan đã phản ứng bằng nhiều phương tiện, nhất là bằng lời cầu
nguyện, bằng “Những Thánh Lễ Cầu Cho Quê Hương”. Và họ đã thắng.
Nhìn về đất nước chúng ta, đã có những nỗ lực từ nhiều phía, trong đó có các
tôn giáo. Sự kiên trì của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Phật Giáo Hòa
Hảo, Cao Đài, các giáo phái Tin Lành và Công Giáo qua tiếng nói kiên cường của
các hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, các linh mục Nguyễn Văn Lý,
Chân Tín, Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi, mục sư Nguyễn Hồng Quang, cụ Lê Quang
Liêm v.v….
Sự xuất hiện của Khối 8406 và sự
góp mặt của các nhà dân chủ thuộc mọi lứa tuổi. Từ những vị lão thành như Hoàng
Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, Vũ Cao Quận, trung niên như Hà
Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Xuân Nghĩa tới những người trẻ
như Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Trần Khải Thanh Thủy,
Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân; Đặc biệt là sự lên tiếng một cách can trường
của các sinh viên thuộc các đại học ở Hànội, Sàigòn trong những cuộc biểu tình
chống hành vi xâm chiếm các hải đảo Trường sa và Hoàng Sa của Trung Cộng, bất
chấp mọi áp lực thô bạo của những kẻ đã cam tâm bán đất, dâng biển cho kẻ thù..
Giữa bối cảnh ấy, những buổi cầu nguyện, hát kinh hòa bình của giáo dân tổng
giáo phận Hànội tại tòa Khâm Sứ cũ, tại giáo xứ Thái Hà, giáo xứ Hà Đông và lan
tới các giáo phận miền Trung, miền Nam, điển hình là những buổi cầu nguyện ở
nhà Dòng Chúa Cứu Thế, đã và đang mở ra một niềm hi vọng mới cho 84 triệu người
dân Việt Nam hiện nay.
Khi những buổi cầu nguyện của giáo
dân đã vượt lên trên mục tiêu đòi lại tài sản, đất đại, các cơ sở, kiến trúc
của Giáo Hội bị nhà nước cướp đoạt trắng trợn từ nhiều thập niến qua, để hướng
tới mục tiêu cao cả hơn là: phục hồi những lý tưởng tự do, công lý, nhân quyền
và nhân phẩm cho người dân thì hẳn nó không còn thu hẹp ở mức độ cá nhân, cục
bộ mà đã trở thành vấn đề của Quốc Gia, Dân Tộc.
Với lá thư kêu gọi của đức TGM Ngô Quang Kiệt ngày
15-12-2007, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã thực sự trở về với sứ mạng căn cốt
là phục vụ con người. Bởi vì như đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh
nhiều lần: “Con người là ‘đường đi’,
là ‘đích điểm phục vụ hàng đầu’ của Giáo
Hội Công Giáo”. Những cơn sóng ngầm ẩn tàng dưới lòng đại dương bắt đầu nổ
ra, đã và đang phá vỡ cái bề mặt tĩnh lặng lâu nay
Viễn ảnh
một cuộc Cách Mạng “Bằng Lời Cầu Nguyện” ở Việt Nam.
Trong những năm tháng gần đây, trên thế giới đã có những cuộc “Cách
Mạng Da Cam”, “Cách Mạng Nhung” nhằm triệt tiêu những thể chế độc tài để thiết
định một xã hội công bằng nhân ái, trong đó mọi quyền tự do, dân chủ của con
ngưởi phải được phục hồi và tôn trọng. Đặc điểm chung của những cuộc cách mạng
này là nó đã được sự hưởng ứng nồng nhiệt của quảng đại quần chúng qua những
buổi tập họp ôn hòa, bất bạo động trên đường phố, nơi công viên, chốn học đường
hoặc trong xưởng thợ. Với những giai cấp, thành phần khác nhau nhưng cùng có
chung một mục tiêu, họ tìm đến với nhau bằng những tấm lòng trong sáng và yêu
thương, không vũ khí, không gậy gộc.
Tương tự như thế, chiến dịch cầu nguyện tại tòa Khâm Sứ cũ ở Hànội sau đó tràn
vào Sàigòn của hàng ngàn giáo dân Công Giáo trong suốt thời gian qua, đã diễn
ra trong một bầu khí thánh thiêng và ôn hòa tuyệt đối. Như đã nói: thử tưởng
tưởng tượng một chiến dịch cầu nguyện như thế đồng loạt diễn ra tại khắp các
nhà thờ Công Giáo thuộc 25 giáo phận trên toàn lãnh
thổ, nhất là lại được sự hưởng ứng của hàng hàng lớp lớp những thành
phần dân chúng trong các cộng đồng tín hữu thuộc các tôn giáo bạn như các hệ
phái Tin Lành, Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Sau các cuộc “Cách Mạng Da Cam”, “Cách Mạng Nhung”, lịch sử mai ngày hẳn sẽ nói
tới một cuộc cách mạng khác ở Việt Nam: “Cách Mạng Bằng Lời Cầu Nguyện”.
Dĩ nhiên, mọi thành công hay thất bại trên đời đều có những điều kiện đi kèm.
Trong buổi nói chuyện với ông Nguyễn Văn Khanh, phái viên đài RFA hôm Thứ Sáu
25-01 vừa qua, khi được hỏi: liệu chiến dịch cầu nguyện của giáo dân hiện nay
có khả năng đạt được kết quả mong muốn không, chúng tôi đã trả lời đại cương
như sau:
“Chìa khóa sự thành công hiện nay trong tay các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam . Về phía người tín hữu, sự kiện họ nồng nhiệt hưởng ứng lời
mời gọi của chủ chăn, tích cực tham gia đông đảo những buổi cầu nguyện đòi nhà
cầm quyền cộng sản trả lại đất đai, tài sản của Giáo Hội, phục hồi công lý,
nhân quyền và nhân phảm cho 84 triệu đồng bào trong nước, là một biểu chứng
hùng hồn cho thấy tinh thần kỷ luật và thái độ vâng phục của họ. Vì thế, thành
bại của chiến dịch cầu nguyện lúc này chỉ còn tùy thuộc nơi những thành phần có
trách nhiệm trong Giáo Hội. Nếu tất cả đều rụ lại nơi lập trường chuyên nhất và
dứt khoát của người cầm đầu Tổng giáo phận Hànội, cùng nhận chân được chủ
trương hù dọa và sách lược mua chuộc, gây chia rẽ, “mềm nắn rắn buông” của nhà
cầm quyền cộng sản, nhất là luôn đề cao cảnh giác trước nguy cơ “thọc gậy bánh
xe”của những thứ “con thoi” không cần thiết trong nội bộ thì lo gì đại cuộc
không thành công”.
Vả chăng, khi cuộc vận động đấu tranh ôn hòa cho những mục tiêu cao cả là phục
hồi quyền tự do dân chủ và nhân quyền nhân phẩm của dân tộc Việt Nam thì hẳn
rằng nó đã vượt ra ngoài và lên trên những quyền lợi riêng của cá nhân để trở
thành cuộc vận động đấu tranh chung của toàn dân, bao gồm mọi giai cấp, mọi
thành phần, mọi tôn giáo, thì viễn ảnh một cuộc cách mạng dân tộc chắc chắn sẽ
ở trong tầm tay của mọi người.
Trần
Phong Vũ
Nam California, ngày 26-01-2008
----------------------------------------
[1] Ngay khi linh mục Lý bị bạo quyền cộng sản khủng bố, bị bắt, bị truy tố ra
tòa, bị công an CS bịt miệng khiến dư luận quốc tế công phẫn, hàng giáo phẩm
vẫn không có một tiếng nói.
[2] Trên nguyệt san DĐGD số Xuân Mậu Tý 2008 và trên Đàn Chim Việt các ngày
17/19-01-2008.
[3] Nếu không có phản ứng nào thì phong trào sẽ lây lan, không chỉ trên khắp
các giáo phận Công Giáo từ Bắc chí Nam mà còn là một mời gọi tín đồ các tôn
giáo khác có những hành vi tương tự. Trái lại, nếu phản ứng mạnh bằng vũ lực
chắc chắn chỉ chuốc lấy những tai hại khó lường!
[4] Bài phỏng vấn này của ông JB Nguyễn Hữu Vinh được công bố trên nhiều trang
lướI của các tổ chức Công Giáo.
[5] Chỉ vài ba năm sau khi miền Nam sụp đổ, khi giám mục Sang còn là linh mục
đã được xuất ngoại và là người có nhiều liên hệ với nhà cầm quyền CS. Ông là
một trong hai giám mục ngay lúc sinh tiền được trao tặng Huân Chương “cao quí”
của nhà nước.
[6] Trong bài “Báo Động Tình Trạng Tôn Giáo Ở Việt Nam” công bố trên mạng lưới
Đàn Chim Việt cuối năm 2007, tác giả Nguyễn văn Lục viết:
“Xin trích dẫn một cuốn sách của giám mục Nguyễn Văn Sang, một cuốn sách làm
nhiều người Thiên Chúa giáo xấu hổ khi phải đọc. Biết làm sao, ở đâu cũng có
người ngay lành và kẻ không ngay lành. Cuốn sách chỉ có hai mục đích: xưng tụng
mình và tán tụng chế độ.
Sau này, trong cuốn băng thu lại buổi nói chuyện ở Thị Nghè về chuyến đi Roma.
Lm Sang khoe là cả chuyến bay, chỉ có mình Lm là có thông hành ngoại giao. Chỉ
mất 5 phút là khai báo xong mọi thủ tục. Từ Đức Giáo Hoàng, Hồng y ở Roma đều
khen ông trẻ, năng động, khéo quá. Trong buổi khai mạc Hội nghị truyền giáo, Lm
Sang kể lại lời phát biểu của Hồng y Rossi: “sau cùng ngài hướng về phía tôi
nói: ‘chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh sự có mặt của giám mục Nguyễn Văn Sang’…
Cả hội trường vỗ tay như pháo nổ, hoan hô và chào mừng những đứa con của giáo
hội VN và của đất nước anh hùng vừa chiến thắng ngoại xâm” (trang 38-39).
Kể ông Hồng y này cũng thuộc bài nhanh thật, biết xử dụng chữ Đất nước anh
hùng? Hay phải chăng chỉ là chữ nghĩa của Giám mục Nguyễn Văn Sang gán vào
miệng ông Hồng y?
“Lm Nhật Bản thì khen tôi nói tiếng Pháp rõ ràng và hay lắm, lại nói được tiếng
Anh, tiếng Đức.. Kem Ý ăn vừa ngon ngọt, vừa bổ khiến tôi đâm nghiện, không mấy
ngày không ăn.. Thấy họ, tôi tiếc cho đời mình không có điều kiện để học hành
kỹ càng đến nơi đến chốn… Song nhiều lần, tôi cũng tự an ủi mình và nói đùa với
nhau: Chả gì ta cũng tốt nghiệp đại học nhân dân, 25 năm sống trong long dân
tộc, dưới chế độ xã hội chủ nghiã, hỏi có bằng nào hơn không?” (Trang 61)
Thật là ngượng.
“Tôi gặp một anh lính nguỵ, tôi nảy ra ý định thử chàng lính ngụy một phen, bèn
hỏi thẳng anh ta:
- Cậu đã ra Bắc học tập cải tạo, cậu thấy sự đạo ngoài đó ra sao?
Anh lính nhìn tôi một lúc rồi hăng hái nói:
- Hết trơn đạo rồi còn đâu, mấy ông Lm, bà phước vô khám hết trơn à. Nằm ở trại
Hỏa lò suốt ba tháng trời, tôi hổng nghe tiếng chuông nhà thờ, chùa chiền gì
hết.
Mấy ông Lm bụm môi cười không nổi. Còn tôi, cáu quá, muốn bạt tai anh lính ngụy
mấy cái, vì dám đưa tin thất thiệt cả với “ông cụ đạo miền Bắc” chính cống đang
đứng trước mặt hắn, xong tôi lại thương hại, chỉ vì hắn muốn xin ăn trong những
ngày lang thang trên đất khách quê người, nên đành phải tung tin thất thiệt đó
ra. Thôi cũng tha thứ cho những con người đáng thương đó”.
Ai cần được tha thứ và ai đáng thương hơn ai?
“Tôi coi cuốn phim: Những chặng đường lịch sử… Nhưng hình ảnh cuối trong phim
như làm tim tôi ngưng đập. Rõ ràng có cảnh tôi làm lễ và giảng lễ đêm sinh nhật
năm 1972 ở nhà thờ Lớn Hà Nội.. Ôi, hình ảnh khiêm tốn của tôi được chọn để ghi
vào những chặng đường lịch sử của Dân tộc, mà tôi có công lao gì đâu. Cuốn phim
này cũng được chiếu rộng rãi trong cả nước, nên mọi người đều thấy tôi đêm đó
mặc lễ phục trắng, thêu những bông huệ tười đẹp, và họ đến thăm tôi, ca
ngợi...”
Đôi lời của người viết: Cuốn sách nói tới ở đây có tựa đề là “Hành Hương &
Thăm Viếng” của GM F.X. Nguyễn Văn Sang cuốn 1 & 2 do Nhà Xuất Bản Hội Nhà
Văn ở VN ấn hành. Để kiểm chứng, chúng tôi đã cố gắng tím bộ sách này và ban
đầu không khỏi ngạc nhiên khi thấy có nhiều chi tiết được tác giả Nguyễn Văn
Lục trích dẫn hơi khác hoặc không có, kể cả số trang cũng không ăn khớp. Mở tới
trang cuối tôi mới vỡ lẽ: bộ sách tôi đang có trên tay được in lại ngày
01-6-2003 có ghi rõ là “sửa lại tại Thái Bình” trong khi ấn bản nguyên thủy in
tại Hànội tháng 6-1983, tức là đúng 20 năm trước. Và như vậy có thể nhà văn NVL
đã căn cứ vào ấn bản đầu.
Cũng xin trích vài chi tiết trong bộ mới đã sửa lại để rộng đường dư luận: “Tôi
bước vào tòa Đại Sứ như bước vào mảnh đất thiêng liêng của Tổ Quốc, nơi ấm áp
tình thương của tất cả những người đồng bào ruột thịt” (trang 33 cuốn 1) “Cả
hội trường vỗ tay như pháo nổ hoan hô và chào mừng những đứa con của Giáo Hội
Việt Nam và của đất nước anh hùng” (trang 41 cuốn 1)
“Tôi cười nói với các
Ngài một câu châm ngôn ‘Sự gì có liên hệ cho sự đấu tranh cho con người, cho
hạnh phúc phồn vinh của họ thì không xa lạ với đất nước chúng tôi” (trang 49
cuốn 1) “Thấy họ, tôi tiếc cho đời mình không có điều kiện để học hành kỹ càng
đến nơi đến chốn một vấn đề, một ngoại ngữ, thì lấy bằng cấp này khác. Song
nhiều lần tôi tự an ủi mình và nói đùa với nhau: ‘Chả gì ta cũng đã tốt nghiệp
Đại Học Nhân Dân, 25 năm sống trong lòng dân tộc, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
hỏi có cái bằng nào hơn’” (trang 61 cuốn 1)
“Ngài nói tiếng Pháp
rất trôi chảy…rất thích thú khi nghe tôi kể cho Ngài nghe về Việt Nam kháng
chiến chống ngoại xâm” (trang 69 cuốn 1) “Thú thật đã lâu lắm tôi mới được một
bữa ăn ngon miệng… trong ngôi nhà tượng trưng cho Tổ Quốc thân yêu… chung bàn
với người đại diện Chính quyền VN yêu mến vừa chân thành vừa trân trọng…
Trong bữa ăn, Đại Sứ
thân ái hỏi thăm tình hình bên nhà… Bước lên xe từ giã tòa nhà thân thiết tượng
trưng cho Tổ Quốc mến yêu, tôi ra về, trong lòng cảm thấy lâng lâng”. (trang
73/74 cuốn 1) “Tôi trả lời có ý đùa cô chiêu đãi viên: Đừng có căn cứ vào da
vàng mũi thấp mà bảo ai cũng là người Nhật cả… Tôi là người Việt Nam, Việt Nam
Điện Biên Phủ đây” (trang 122 cuốn 1)
“…trước khi tới Paris,
tôi đã nghe nói các người Việt Nam ở đây thuộc nhiều thành phần, quan điểm
chính trị rất khác nhau… tôi quyết định sẽ dè dặt trong việc tiếp xúc với họ….
hễ có ai gọi giây nói cứ bảo tôi đi vắng …, trừ bên tòa Đại Sứ Việt Nam..”
(trang 126 cuốn 1) “Tôi rất xúc động vì đã nghe tên Đại Sứ là một nhân vật thế
giá đại diện cho VN ở nước Pháp văn minh lịch sự này đã lâu, nay mới được gập
mặt.
Đại Sứ rất lịch thiệp, dịu dàng mời tôi ngồi
xuống cạnh ông trên divant, song tôi vẫn đứng nói mấy câu chào kính Đại Sứ và
các vị trong tòa nhà tượng trưng cho đất nước anh hùng của tôi…” (trang 132
cuốn 1) “Xe điện ngầm ở Pháp có đã lâu đời không được tiện nghi sạch sẽ… Nghe
nói ở Mátxcơva có tàu điện ngầm với những ga bến sang trọng, đẹp đẽ vào hạng
nhất thế giới…” (trang 148 cuốn 1)
Và còn nhiều nhiều những chi tiết tương tự ở cuốn 1 cũng như cuốn 2 nhưng người
viết không dám làm mất thêm thì giờ quí báu của độc giả.
[7] “Murder of a Polish Priest” của John Fox đăng trên tạp chí Reader’s Digest
tháng 12-1985. Tìm đọc phần chuyển ngữ trong chương XXVIII tác phẩm “Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại” của Trần Phong Vũ, do tủ sách Tiếng Quê
Hương ấn hành tháng 5-2005 và tái bản lần thứ nhất tháng 5-2006.